12 thg 12, 2012

Người mê phở nói chuyện phở

Cả hơn tuần nay tôi ể mình, không có ra ngoài. Hồi sáng thấy trong người khỏe lại, chợt thèm phở cách gì. 

Nhắc đến phở là đúng băng tần của tôi rồi, bởi vì tôi có rất nhiều kỷ niệm riêng tư về phở với ông bô của tôi, kể hoài không hết. Nay đã về hưu, và ông bô tôi cũng đã leo lên bàn thờ ăn xôi nghe kèn từ hơn 30 năm nay rồi, nhưng mỗi lần ăn phở đều ít nhiều nghĩ đến ông bô tôi. Mặc dù xuất thân “Cao Cẳng Sư Cụ Đông Dương”, ông bô tôi vẫn thuộc loại thầy giáo thủ cựu, đạt tiêu chuẩn “thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn”, mà tôi lại là con trai đầu lòng – cậu cả con bà hai, loại “con đợi con chờ, con cầu con khẩn” – nên được ổng cưng lắm, mà càng cưng lại càng chết… cha tui! Ổng o ép tôi từ cái học đến cái ăn, muốn nhào nặn tôi thành một “bản sao” của ổng. Về cái học thì thỉnh thoảng ổng lại múa roi mây, bắt chia “vẹc bờ” các “tăng” các “mốt”, lạng quạng là ổng lôi tôi ra “uýnh biểu diễn” cho đám học trò của ổng coi chơi, uýnh đến nỗi không lớn được, thành thử bây giờ vóc vạc nhỏ thó. Về cái ăn thì ổng ăn cái gì, tôi phải ăn cái đó, ổng ăn kiểu gì tôi phải ăn kiểu đó.

Riêng về phở thì gần hết một đời, tôi vẫn chưa thấy ai mê phở như ông bố tôi. Đối với ổng, ăn phở không phải để ăn cho no, mà để ăn cho… sướng! Hồi 1954 trở về trước ở Hà Nội, thành phố bé bằng cái bàn tay, không tiệm phở nào mà ổng không dẫn tôi tới ăn thử, để chọn những chỗ ngon nhất theo cái “gu” của ổng. Ổng chê phở Cửa Nam là nước không trong, bánh không mỏng, không dai, nhất là ổng cực lực đả kích món phở tái sách của tiệm này. Theo ổng, phở thì phải là phở bò, và là phở chín, thịt mới thơm, còn tái thì có mùi gây của thịt bò sống, làm mất mùi phở, đồng thời thịt sống làm nước phở “đục như nước cống”, ăn phở tái là không biết ăn phở(!). Ổng cũng thích nhậu sách bò lắm chớ có phải không đâu, nhưng phải là sách chấm tương gừng, ăn với húng giũi thôi, không thể cho vào phở được. Ổng chê phở Cửa Nam thua xa phở Cầu Gỗ. Ổng có thể ăn phở sáng-trưa-chiều-tối-khuya, từ sớm tinh mơ đến tối mịt mờ khuya lắc khuya lơ, bất cứ lúc nào, và có thể ăn ngày này sang tháng khác. Ổng coi phở như một món ăn chơi, thích lúc nào thì ăn lúc nấy, ăn lấy hương lấy hoa thôi. Một phần cũng vì bát phở (từ ngày vô Nam tôi mới quen kêu bằng tô phở) Hà Nội thời đó nhỏ xíu, ít xỉn, nông toẹt – tiếng văn chương kêu bằng “thanh cảnh ” – tuổi thiếu niên trổ giò của tôi hồi đó thì chỉ húp ba bốn húp là tiêu bát phở! Chả là phở gánh Hà Nội ngày xưa không ăn bằng thìa (muỗng), chỉ có đũa để gắp, và… kê miệng húp!

Ông bố tôi chọn phở chứ không chọn chỗ, ổng chịu nhất là gánh phở cố định ở Phố Hàng Vôi, khúc gần Ấu Trĩ Viên hồi đó (bây giờ chả biết đã được xây khách sạn hoặc công ty gì nữa). Ăn phở gánh Hàng Vôi vào giờ đi làm buổi sáng thì phải xếp hàng, rồi tự kéo ghế đẩu ngồi ăn ngay trên vỉa hè. Nghỉ hè, ổng chấm thi chấm cử xong, thường đưa tôi ra bãi biển Đồ Sơn, ô tô ca (xe đò) đi ngang Hải Dương thì mua bánh đậu xanh Rồng Vàng, để ghé Hải Phòng, sau khi ăn phở Hợp Lợi ở Phố Cát Dài (hình như số nhà 215 thì phải, lâu quá quên mất tiêu) thì dùng làm món tráng miệng. Tiệm phở Hợp Lợi này còn nổi tiếng về các món phở xào dòn, xào mềm, cũng như phở áp chảo khô, áp chảo nước. Hóa nên từ nhỏ xíu tôi đã lây cái bệnh mê phở của ông bô tôi, nhưng không mê đến nỗi quá khích như ổng. Ổng đả kích các loại phở “biến tấu” như phở gà, phở sốt vang… cho rằng “phở thì phải là phở bò”. Tôi cũng có thể ăn phở bất cứ lúc nào đói bụng, và có thể ăn mỗi ngày mà không chán. Thậm chí hồi nhỏ xin tiền ăn phở vào buổi chiều, bà mẹ không cho, bắt ăn cơm, nhiều lần tôi phải giả vờ ốm (bịnh) để đòi ăn phở.

Chả biết ở Sài Gòn trước 1954 có tiệm phở không, chỉ biết là từ sau 1954 thì nhiều tiệm phở Bắc mới theo nhau mọc lên, và cha con tôi ngày ngày đi “duyệt” từng tiệm, nghe nói tiệm nào mới mở là tới ăn thử. Ông bố tôi chịu nhất là tiệm phở xập xệ mang tên “Phở Số 1″ trên đường Phan Thanh Giản cũ (nay là Điện Biên Phủ), ngay kế đường rầy xe lửa. Ông chủ tiệm thấy ông bố tôi vào là phải trụng bánh ba bốn lần cho thật kỹ, để khi chan nước dùng (nước lèo) thì nước mới không bị đục, bởi vì ổng không chỉ ăn phở, mà ổng còn nhìn phở nữa. Bánh phở phải trắng tươi như bạch ngọc, còn nước phở phải vàng óng, trong suốt như hổ phách! Ổng còn kÿ nước béo, hồi đó ai mà biết cô-lét-tê-rôn là cái quái gì, chỉ vì, như ổng nói, tô phở nước béo “trông thô bỉ lắm”! Còn nấu phở mà cho củ cải vào thùng nước lèo thì ổng bảo là “bố láo bố lếu”. Về sau tiệm này dọn về Tân Định gần nhà tôi, trên đường Hai Bà Trưng, gần ngã tư xéo Yên Đổ – Trần Quang Khải, rồi sau lại dọn đi nơi khác. Mặc dầu “chịu đèn” tiệm này, ổng vẫn chê là con bò Miền Nam không ngon (ngay cả phở Hà Nội ngày xưa, muốn ngon thì phải nấu với bò nuôi ở tỉnh Phú Thọ cơ), nước dùng không đậm đà, bánh phở Sài Gòn làm không đúng cách, không được mỏng, được dai, mà cứ bở bờ bờ, rau mùi (ngò) Sài Gòn không thơm v.v…

Phở Sài Gòn sau 1954 không còn là phở Bắc thuần túy nữa, tô phở lớn hơn, đa dạng hơn. Phở Tàu Bay ở đường Lý Thái Tổ, gần khu Bắc Hải của dân Bắc Kỳ Công Giáo di cư, là một trong những tiệm sớm sủa, rất đông khách, giá rẻ, tô bự, lại còn có loại “tô xe lửa” nữa. Ông bô tôi chê phở Tàu Bay là nước đục, bánh đã dày lại bở, chỉ được cái rẻ. Khi ăn thì cho đủ thứ rau thơm, về sau lại có giá sống, giá trụng, ăn với cả tương đen của Tàu. Ổng thù cái món tương đen này lắm, nói là khiến phở biến thành… mùi Tàu. Thấy thực khách chăm chú “sửa soạn” tô phở, vắt chanh, ngắt đủ loại rau thơm bỏ vô, cho giá vô, rồi còn trộn đều lên trước khi ăn, ổng bảo “đúng là cơm heo”. Phở Bắc ngày xưa chỉ ăn với hành tây và rau mùi (ngò), còn rau quế, tức húng quế thì chỉ ăn với thịt chó hoặc tiết canh và lòng lợn (chấm mắm tôm chanh ớt), cho nên ngoài Bắc mới gọi rau húng quế là húng chó hoặc húng tiết canh. Theo ông bô tôi, điểm dị biệt nhất giữa món Tàu và món Ta là món Ta thường ăn với các loại rau thơm, còn món Tàu không kèm rau thơm. Món Ta thì món nào ăn với rau thơm nấy, tuyệt đối không thể lẫn lộn được. Cho nên ngửi mùi rau tía tô thì tự nhiên thấy thèm các món ốc, ếch, ba ba (cua đinh); ngửi mùi rau kinh giới thì nghĩ đến bún riêu; nhìn thấy rau thìa là thì thèm chả cá, ngửi mùi rau húng giũi thì thèm sách bò, vó bò, bê thui, bò thui (đều chấm tương gừng) v.v… Nay nếu bỏ hầm bà làng các loại rau thơm vào phở thì… “chả còn ra cái quái gì nữa!”

Sau khi tôi – cái “bản sao” của ổng – vô trường Học Đại Sư Cụ Sài Gòn, không còn trong vòng o ép của ổng nữa, thì tính chất “bản sao” trong tôi phai nhạt dần, tự nhiên tôi thích ăn phở kiểu Sài Gòn, giá sống, rau thơm gì cũng cân tuốt, rau dấp cá, ngò om, húng chó, ngổ ba lá… làm ráo nạo, có điều là cho đến nay vẫn không thích ăn phở tái, và càng không thể xịt tương đen vô phở! Tôi không được rõ tình hình phở Hà Nội sau năm 1954 ra sao, nhưng sau 1975, nhiều người ở Hà Nội vào kể rằng giai đoạn khó khăn lúc trước thì chỉ có phở quốc doanh với món “phở không người lái”. Phải xếp hàng, mua phiếu, như kiểu các cửa hàng ăn uống quốc doanh ở Sài Gòn sau 1975 vậy. “Phở không người lái” tức là phở không có thịt, chỉ có bánh phở và nước phở nấu bằng xương bò. Vì nước phở quá nhạt nhẽo do ít xương bò, nên nhiều người đi ăn phở không người lái đã phải đem theo lọ “mì chính” (bột ngọt – âm Quảng Đông của “vị tinh”), rắc một chút vào bát phở để đánh lừa khẩu vị. Thảm đến thế là cùng! Chính vì vậy, đến nay dân Hà Nội vẫn còn thói quen ăn nhiều bột ngọt, và còn có câu thành ngữ tân thời: “Đắt như mì chính thời bao cấp”.

Vì mê phở, nên tôi thích tìm hiểu tình hình phở. Chưa bao giờ Sài Gòn mọc thêm nhiều quán phở, tiệm phở lớn nhỏ như hiện nay, hầu như đường phố nào, hang cùng ngõ hẻm nào cũng có, chưa kể các xe phở cố định và lưu động. Còn ở Hà Nội thì báo chí cho biết, Hà Nội cũng đang ở vào thời kỳ “bung ra” của phở. Mới đây ở Hà Nội có ông giáo sư Lê Văn Lan đã vận dụng “phương pháp lịch sử” (?) để nói về các giai đoạn tiến hóa của phở, và còn làm một bản “thống kê phở” nữa. Theo ông, sự tiến hóa này đã trải qua “4 bước”. Bước thứ nhất là giai đoạn “Hà Nội hóa” từ đầu thế kỷ 20, khiến phở trở thành một đặc sản của Hà Nội, và các tỉnh khác ở Miền Bắc nấu phở thì cũng nấu theo kiểu Hà Nội. Thứ nhì là giai đoạn phát triển “cổ điển”, gồm những năm trong 2 thập kỷ 40-50. Có lẽ đây là loại phở cổ điển theo “gu” của ông bô tôi chăng? Thứ ba là giai đoạn “mậu dịch”, những năm 60-70. Thứ tư là giai đoạn “bung ra” từ những năm 80 đến nay. Ông giáo sư này có vẻ có lý, nhưng chia giai đoạn tròn trịa, cứng ngắc như thế có chỗ không ổn, thiếu tính… khoa học, vì trong thập kỷ 50 thì trước và sau 1954 khác nhau một trời một vực. Mặt khác, theo nhiều người, giai đoạn gần đây nhất – từ thời đổi mới đến nay, tức là từ 1990 – có lẽ nên gọi là giai đoạn “phục hưng” của phở. Ở Hà Nội, vào những năm cuối của thời “phở mậu dịch”, phở có bán ở quán ăn tầng trệt khách sạn Phú Gia, cạnh Bờ Hồ. Bây giờ thì cái quán ấy đã thành “rét-tô-răng” mà không còn món phở nữa. Phở Hà Nội có lúc đã tiêu điều, song bây giờ có thể nói phở Hà Nội đã sống lại, và đang “bung ra”… theo nhiều nghĩa.

Về “thống kê phở” thì ông giáo sư Lan cho biết, theo những gì người ta nghiên cứu được ở Hà Nội, phở đã có cả 100 tuổi. Phở là món ăn do người Việt chế ra, hay du nhập từ Trung Quốc? Câu trả lời đã rõ ràng: phở là món ăn hoàn toàn Việt Nam, vì nếu từ Trung Quốc thì tại sao giờ này Trung Quốc không có món phở? Còn phở đã gần tròn, đã tròn, hay đã hơn 100 tuổi, thì chẳng ai khẳng định được chắc chắn và rõ ràng, mà có lẽ cũng chẳng có gì quan trọng lắm. Điều quan trọng là phở đã như một cây cổ thụ, bắt rễ, đâm chồi, lan tỏa sâu vào (bộ đồ) lòng người, đã khẳng định được vị trí độc nhất vô nhị của nó trong nền văn hóa ẩm thực của người Việt cả trong lẫn ngoài nước. Đến nay ít nhất cũng đã có vài công trình khảo sát, nghiên cứu rất “nghiêm túc” về phở, dưới “góc độ lịch sử và văn hóa” như của Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội, hay dưới “góc độ khoa học kỹ thuật” của Bộ môn Công nghệ Chế biến Trường Đại học Thương nghiệp Hà Nội. Theo thống kê trong sách vở báo chí ở Hà Nội hiện nay thì tài liệu nhiều nhất đã kê được 17 món phở, gồm phở chín, phở tái, phở gầu, phở sụn, phở sách, phở xá xíu, phở gà, phở gà xào, phở xào mềm tim gan, phở xào dòn tim gan, phở bò xào dòn, phở gà xào dòn, phở áp chảo nước, phở áp chảo khô, phở sốt vang v.v… và cả phở chua. Thống kê này quả là có giá trị, song hình như vẫn chưa thấy đủ so với thực tế phở ở Hà Nội bây giờ. Ít ra cũng thiếu mất vài món, mà dù chưa được thừa nhận chính thức, vẫn có nhiều người thích ăn, như phở mọc, phở thập cẩm… Ông bô tôi đã ăn xôi nghe kèn từ cuối thập kỷ 60, nếu ổng còn sống thì sẽ bảo là trong 17 món phở đó, ngoài phở bò chín, còn 16 món kia là “bố láo bố lếu” hết. Phở bò cho tới nay vẫn là “phở căn bản” trong hầm bà lằng các món phở hiện hành. Phần lớn các quán phở nổi danh trong hàng ngũ “Hà Thành đệ nhất… phở” bây giờ cũng vẫn là các quán phở bò!

Một ông ký giả cho biết, cái cảnh xếp hàng vốn ám ảnh người dân Hà Nội mấy chục năm của thời bao cấp, đến nay chưa hết hẳn. Buổi sáng cỡ 8-9 giờ, đi qua các phố Bát Đàn, Tôn Đức Thắng, Lý Quốc Sư… người ta vẫn thấy cảnh xếp hàng rồng rắn để ăn phở, nhưng ngày nay người ta xếp hàng với một ý nghĩa và tâm tình khác hẳn. Phở phố Lý Quốc Sư thì sáng nào cũng có một ông dáng chừng là nhà doanh nghiệp quốc doanh bự, ăn mặc rất xịn, đầu chải láng mướt, còm lê cà vạt chỉnh tề, tay lăm lăm điện thoại di động từ xe Toyota Camri đời mới bước xuống, cũng đứng xếp hàng kiên nhẫn chờ đến lượt. Thời buổi này thời giờ là tiền bạc, thế mà mất cả mấy chục phút chỉ để chờ ăn một bát phở cho bằng được thì thật là sang và… gàn!

Nghe nói một trong những quán phở loại ngon nhất của Hà Nội hiện nay là phở Bát Đàn. Phở Lý Quốc Sư còn gọi là “Phở Bà Ngọc”, vì bà Ngọc làm “kỹ thuật viên” chính, cũng ngon ngang ngửa với phở Bát Đàn. Phở Hàng Muối cũng ngon, tuy món thịt chín hơi cứng hơn một chút. Phở “tái lăn” ngon nhất có lẽ là ở Phở Thìn Lò Đúc, nước dùng đậm đà, hơi béo do thịt xào lăn, song không ngấy. Còn Phở Hàng Bột (phố này giờ đã đổi tên thành Tôn Đức Thắng, song người ta vẫn quen gọi tên phố cũ) có món “bửu bối” là phở sốt vang, nhuộm ra đỏ cả bánh phở. Tuy nhiên, các món phở tái trần, tái lăn, chín… đều ngon. Đặc biệt hơn nữa là cô bán hàng, hình như chửa… chồng, rất xinh đẹp, trắng trẻo, mắt sắc như dao cau, và lúc nào cũng trang điểm rất kỹ càng như sắp đi nhảy đầm, mặc đồ đầm ngồi làm phở mới kiêu chứ, vì cô rất ít cười. Phở gà nổi tiếng có quán ở Phố Nam Ngư. Bà chủ quán hơi đồng bóng, song phở rất ngon. Ngày xưa, ông Nguyễn Tuân đã từng sợ rồi người ta sẽ làm “phở hộp” thì không còn là phở. Bây giờ thì chưa thấy phở đóng hộp, mà mới chỉ có “phở ăn liền” của Công ty Vifon, sấy khô cho vào gói, có bột nêm, như mì ăn liền vậy, và tất nhiên là… không người lái. Khỏi phải nói, thứ này thì đúng là “chả ra cái quái gì cả”.

Tôi thì không đến nỗi thủ cựu và quá khích như ông bố tôi, nhưng tôi cho rằng phải “chính danh”, vì đã kêu bằng phở thì phải là… phở, nghĩa là có mùi phở, vị phở, và chỉ là phở bò. Còn nếu cứ đem bánh phở – vốn chỉ là bột gạo – trộn với đủ món biến tấu sau này như thịt gà, tim gan, đồ lòng, sốt vang v.v… thì “cưỡng dâm” cái tên phở quá, mà nên gọi là hủ tíu bò kho, hủ tíu xào đồ lòng, hủ tíu gà v.v… vì hủ tíu là sợi bột (âm Quảng của từ ngữ Hán “khỏa điều”), sợi bột thì muốn xào nấu với gì chả được. Nếu không thì bún ốc, bún riêu… cũng có thể gọi là phở ốc, phở cua… hay sao? Còn những loại phở khác ở Hà Nội hiện nay như phở tim gan, phở mọc, phở thập cẩm… nói ở trên, thì xin lỗi, “bố láo bố lếu” hết!

Tuy nhiên, trong thời kỳ “bung ra” của phở từ Nam chí Bắc hiện nay, hình như các món phở xào và phở áp chảo đã thất truyền. Hồi sau 1954, Sài Gòn cũng có xuất hiện mấy món này, sau đó thì một thời gian tiệm phở 79 ở đường Võ Tánh, gần Ngã Sáu Sài Gòn cũng có mấy món này, nhưng không phải là tay chuyên môn làm, nên ít khách kêu, rồi dẹp luôn, vì hồi đó người muốn ăn phở xào, phở áp chảo, chỉ là thành phần Bắc Kỳ di cư, tức Bê 54 như gia đình tôi chẳng hạn. Ông bô tôi cũng thích ăn mấy món này, ngoài tiệm không có thì bà bô tôi làm ở nhà cho ổng ăn đỡ vậy. Phở áp chảo hay phở xào thì cũng gồm 2 thành phần chính, là bánh phở và “người lái”. Quan sát bà bô tôi làm thì bánh phở tươi mua về từng lá, phải xắt to bản, loại bánh rờ vô thấy dẻo và ráo tay, không dính tay, không thoa dầu (mùi dầu khiến phở bị hôi dầu). Phở xào thì có xào mềm và xào dòn. phở áp chảo thì có áp chảo khô, áp chảo nước. Nếu làm phở xào mềm thì sau khi xắt, bánh phở được gỡ tơi ra, rắc một tí muối, trộn đều, bỏ bánh vào chảo dầu thật nóng, tải mỏng ra, đảo nhanh tay cho bánh khỏi cháy. Khi sợi bánh săn lại thì rắc hành hoa (phần trắng của cọng hành lá) xắt nhỏ, đổ ra đĩa, rồi mới xào “người lái” đổ lên. Bánh phở xào dòn thì phải rắc đều bột năng vào bánh phở, rũ cho tơi, không sợi nào dính sợi nào, rồi cho vào chảo dầu nóng, lật qua lật lại cho vỏ dòn thì lấy ra đĩa ngay, rồi đổ “người lái” lên. Phở áp chảo khô hay áo chảo nước thì cũng theo cách tương tự, chỉ khác là thời gian áp bánh phở vô chảo lâu hay mau thôi, áp chảo nước thì áp mau, áp chảo khô thì áp lâu. Áp chảo khô thì ăn khô, còn áp chảo nước thì vẫn phải chan nước dùng như phở nước vậy. “Người lái” là thịt bò phi-lê xắt mỏng, to bản, xào với cần tây, cà rốt, cà chua, gừng…

Gần đây, với thời “bung ra” và “phục hưng” của phở, thì phở xào và áp chảo đã thấy xuất hiện ở vài tiệm như phở Bắc Hải ở đường Nguyễn Du Q.1, phở Bình ở đường Lý Chính Thắng (Yên Đổ cũ) Q.3, phở Dũng ở đường Trường Sơn (đường mới mở ở khu Tân Sơn Nhất, Tân Bình). Mấy anh già Bê 54 bao năm không được ăn phở xào, phở áp chảo, rủ nhau đi ăn ở tiệm được nghe đồn ngon nhất, là phở Bắc Hải Nguyễn Du (phải gọi như vậy để phân biệt với hàng loạt phở Bắc Hải mọc lên ở một số đường phố khác). Đặc điểm của tiệm này là đầu bếp và phục vụ (chạy bàn) đều là đàn ông, và bán với giá hữu nghị, 20 ngàn một đĩa ăn no. Tôi cũng đã ăn thử, nhưng tôi vẫn không tìm lại được hương vị phở xào và phở áp chảo ngày xưa ở Hà Nội nữa, một phần do phở ngày nay biến tấu búa xua, phần vì chính cái gu của mình có thể đã thay đổi từ hồi nào mà chính mình cũng khó nhận ra.

Ăn phở – và ăn nhậu nói chung – mà chỉ có một mình cũng buồn, sáng sớm tôi xách cái xế độp băng qua Cầu Kiệu, đến hú một anh già ở khu Cư xá Nguyễn Cư Trinh, ngã tư Phú Nhuận, tính rủ qua phở Quyền bên kia ngã tư cháp một tô, nhưng anh già ghiền phở này vốn ham của lạ, chuyên sưu tầm cái mới, lại rủ đến ăn ở một gánh phở lề đường, và nói là chỉ mới xuất hiện ít lâu ở gần Hồ tắm Chi Lăng, anh già còn quảng cáo là gánh phở này có mùi Hà Nội cũ. Tôi ô-kê cấp kỳ, vì như đã từng thú nhận, hễ tôi biết tiệm phở, quán phở, gánh phở nào mới xuất hiện là sẵn sàng đi thực tế ngay. Ông bán phở tuổi mới khoảng ngũ tuần, góa vợ, là dân Ô Chợ Dừa, Hà Nội, nhập cư Sài Gòn mới được ít tháng, cho biết là ông ta bán phở gánh ở Ô Chợ Dừa cả chục năm nay, kể từ sau ngày đổi mới, nhưng đã đánh liều dẫn cô con gái duy nhất vô Sài Gòn, và khoe rằng ổng đã quyết định đúng, vì một tuần bán ở Sài Gòn kiếm bằng cả tháng ở Ô Chợ Dừa. Quả thật, mới sáng ra mà gánh phở của ổng đã đông khách, cô con gái xinh xắn tuổi mới đôi mươi phụ việc cho bố như trần bánh, chan nước lèo, bưng phở cho khách… Ổng vừa xắt thịt, rắc hành… vừa trò chuyện với anh già bạn tôi. Ổng mơ ước sau một thời gian cần kiệm dành dụm, sẽ mở một quán phở nhỏ, và nhất định sẽ giữ vị đặc trưng phở Hà Nội. Sau này thì không biết sao, chớ hiện giờ thì phở của ổng tuy không ngon lắm – có lẽ tôi đã quá xa cái vị phở Hà Nội của gần 50 năm trước, mà chỉ còn quá quen với phở Sài Gòn – nhưng quả là phở của ổng có khác phở Sài Gòn, ít nhất là về mặt… hình thức, tức là không có giá sống, không có rau thơm linh tinh, không có tương đỏ tương đen, mà chỉ có ớt trái, hành tây và rau ngò. Khách phải ăn đứng nếu vài cái ghế đẩu quanh gốc cây lớn đã có người ngồi, và dù đứng hay ngồi thì cũng một tay bưng tô, một tay cầm đũa vì không có bàn, và phải kê tô vô miệng mà húp vì không có muỗng. Nhưng vừa ăn vừa ngẫm nghĩ thì vị phở cũng thanh, không gây, không ngán.

Theo thông lệ, tôi là người đề xuất chuyện ăn phở thì tôi phải trả tiền. Để đáp lại, anh già kéo tôi về nhà ảnh, chiêu đãi một cữ càphê cổ điển “cái nồi ngồi trên cái cốc”, kèm vài điếu Ba Số mà lai rai chuyện phở. Anh bạn này của tôi sính thơ lắm, đi đến đâu là thơ thẩn rơi vãi rông rổng đến đó, nhưng toàn là thơ của thiên hạ không hà. Sáng ra có tô phở đấm mõm Ông Thần Khẩu, thấy đời lên hương, ảnh bèn ư ử ngâm hai câu thơ sặc mùi phở:

Hương thơm trinh nữ? Ồ không phải!
Hương phở thơm đầy những sớm mai…

Gì chứ thơ với thẩn là tôi kÿ nhất, vì hổng khoái, hoặc… hổng biết khoái thơ cao cấp bí hiểm, mà chỉ khoái thơ diễu, thơ cà chớn, đọc lên là nó đi vào tận củ tỉ! Thành thử hai câu thơ này nghe qua giọng điệu thì cũng có vẻ đường được, có vẻ thơ lắm, nhưng nghĩ lại thì có cái lấn cấn, bất ổn. “Hương phở thơm đầy những sớm mai” thì được quá rồi, nhưng mà cứ như giấy trắng mực đen thì làm sao lại có thể lẫn lộn “hương thơm trinh nữ” với mùi… phở được nhỉ? Anh già chỉ cười mỉm chi cọp, chê tôi ngu! Mà tôi ngu thật! Mãi sau mới chợt hiểu ra, con gái nhà hàng phở thì người ngợm thơm mùi phở chứ sao, cũng như cô hàng càphê thì thơm mùi càphê, cô hàng nhang thì thơm mùi nhang, cô hàng mắm thì thơm mùi… mắm ấy mà. Vậy thì cô gái Bắc Kỳ xinh xắn tuổi đôi mươi, con ông hàng phở hồi nãy, không phải là có cái “hương thơm trinh nữ” quyện với cái “hương phở thơm đầy những sớm mai” hay sao! Anh già này ghê thật! Hèn gì cứ rủ tôi đến gánh phở đó cho bằng được, bỏ cả phở Quyền mà tôi với ảnh vẫn thỉnh thoảng tới ăn từ cả mấy chục năm nay. Hiểu ra như thế, tôi lại cảm thấy… yêu hai câu thơ này mới chết chứ, bèn hỏi là thơ của ai. Ảnh thú thật là không biết, nhưng lại thòng một câu: “Hình như của… Tản Đà!” Tôi giãy nảy lên tức thì. Cái giọng điệu đó rõ ràng là thơ sau này, không thể là thơ của thời tiền bán thế kỷ 20 được. Ngoài ra, gì chớ về thơ Tản Đà, thì ai chớ ảnh đừng có cãi với tôi. Ngày xưa ông bô tôi có 2 cuốn Tản Đà Vận Văn, Tập 1 và Tập 2, “cò-lếch-xông” toàn bộ sự nghiệp thơ (văn vần) của Tản Đà, mà tôi từng đọc đi đọc lại rất nhiều lần. Sách in giấy bổi vàng khè, nham nhám, chỉ có cái bìa là giấy cứng trắng trẻo, ở giữa trang bìa của cả 2 cuốn đều có hình vẽ một người đàn ông gánh hai cái thúng, đang bước đi, đầu đội nón lá sụp xuống che cả mặt, bên dưới có hàng chữ “Gánh văn lên bán chợ trời”. Từ lúc còn nhỏ xíu, tôi đã khoái cái hình vẽ đó rồi. Thành thử đừng có cái gì cũng… đổ lên đầu ông Tản Đà! Lại nữa, nói chuyện phở thì ai chớ ảnh cũng đừng có hòng cãi với tôi, vì tôi có cái tật là làm “cò-lếch-xông” bất cứ chuyện gì liên quan đến phở, vì tôi nghĩ, kẻ mê phở cũng nên rành chuyện phở, còn không thì chẳng khác gì nhà văn mà… mù Văn học sử vậy!

Không phải chỉ riêng anh già bạn tôi nghĩ hình như hai câu thơ phở đó là của Tản Đà, mà thậm chí trước đây còn có kẻ tung ra giả thuyết cho là chính ông Tản Đà đã đem món phở của Miền Bắc vào Sài Gòn. Giả thuyết này dựa vào câu chuyện của những năm tháng Tản Đà cùng Ngô Tất Tố lang thang vào Nam Kỳ cộng tác với ông Diệp Văn Kỳ làm báo Đông Pháp Thời Báo. Có lần ông thần ngông kiêm con sâu rượu này từng chơi chữ: “Đất say đất cũng lăn quay, Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười?” – đã cao hứng cạy gạch sân nhà, cuốc đất lên trồng húng giũi để ăn bò tái, bê thui, trồng húng quế để ăn tiết canh, thịt chó (cho nên ngoài Bắc mới gọi húng quế là húng tiết canh, hoặc húng chó)… Rồi một buổi chiều lạnh lẽo hiếm hoi của Sài Gòn, ông đã tự nấu phở để chiêu đãi bạn bè, ai ăn cũng khen ngon. Từ đó, món phở dần dần được phổ biến rộng rãi! Yêu phở và yêu Tản Đà đến mức gán cho ông cái công lao đem phở từ Bắc vào Nam thì cũng thông cảm được đi, vì có người còn yêu phở như yêu người tình nữa kìa. Khiếp lắm! Một nhà văn B75 lớn tuổi từng viết về “tình yêu phở” của mình: “Những ngày trong lòng buồn vui không rõ rệt, tự nhiên người ta lại thấy thèm một tô phở với lòng dạ nôn nao, với cảm giác như nhớ người yêu đã hẹn mà nàng không đến”. Ối dzời! Lại thêm một ông cột phở với đàn bà!

Thật ra, phở chỉ mới có mặt ở Sài Gòn từ thập kỷ 40, và chỉ gần đây người ta mới tìm ra một chứng nhân của Phở. Đó là bà cụ Trần Thị Năm, nay mới… ngoài 80 tuổi xuân, lưng còng, tóc bạc phơ, ở số 63/5 trong Hẻm Pasteur, sau rạp hát Vinh Quang. Bà kể: “Từ năm 1942, ông bác của tôi là cụ Kỉnh từ làng Vân Đình (Hà Đông) vào Sài Gòn lập nghiệp. Ông bán gánh Phở Bắc trên đường Lagrandière (Gia Long cũ, nay là Lý Tự Trọng). Mãi đến năm 1949 mới chuyển về đây mở xe phở, tôi còn nhớ lúc đó mỗi tô chỉ có 2 xu, tô đặc biệt 3 xu. Sau đó cụ Kỉnh truyền nghề cho cụ Minh, là anh ruột tôi. Thuở ấy phở Bắc không có giá sống và các loại rau lung tung như bây giờ, nhưng vì khẩu vị của người Sài Gòn nên chúng tôi phải chiều theo”.

Ông An – con của cụ Minh – nay là chủ nhân Phở Minh, cho biết ngày xưa ở trong hẻm này có cả loạt quán phở mọc lên, nhưng nay chỉ còn một mình gia đình ông “trụ” lại được. Khoảng thập kỷ 1950, các văn nghệ sĩ, chính khách Miền Nam nườm nượp đến đây bất kể ngày đêm. Hồi đó ai mà không mê phở trong Hẻm Pasteur này. Trong số những thực khách, có lẽ ông Trần Rắc – chủ tiệm giầy trên đường Espagne (Lê Thánh Tông ngày nay) mới thật sự là người có tâm hồn thi sĩ nhất, không kết hợp thơ với… giầy, mà lại kết hợp thơ với phở. Vì khoái phở Minh mà ông đã sáng tác bài thơ tứ tuyệt tặng chủ quán để treo trong quán chơi:

Nô nức đồn vang khắp thị thành
Trần Minh phở Bắc đã lừng danh
Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu, sụn
Gia vị: tương, rau, ớt, mắm, chanh.

“Thơ Phở” như vậy cũng là đạt rồi, nhất là biểu lộ được cái tâm trạng yêu phở, mặc dù hơi có vẻ… quảng cáo tiếp thị! Không hiểu ông bà khuất mặt khuất mày nào xui khiến mà tự dưng bữa nay tôi lại nổi hứng, nói nhiều về phở đến thế, chả còn nhiều giấy để nói về những món khác của một Sài Gòn ở vào đầu thiên niên kỷ mới. Hồi trước 1975, ở Sài Gòn có Câu đối phở của ông “thợ sắp chữ” Thầy Khóa Tư như vầy, ông này thì chỉ là…. thợ sắp chữ thôi, chớ không có tâm hồn thi sĩ như ông chủ tiệm giầy:

Tái chín nạm giò vè, tiêu ớt rau thơm giá sống
Sách gầu gân mỡ sụn, tương chanh nước béo hành trần.

Ông này chắc phải là tín đồ của phở nên mới cảm khái mà sắp chữ như thế. Về mặt kỹ thuật thì cũng được đi, nhưng về nội dung thì có người chê phở này không phải là phở Bắc chính cống, vì có cả giá sống, nhưng bớt quá khích một chút thì hiểu đây là Phở Việt Nam, không còn phân biệt Nam hay Bắc nữa, vì dân Bê75, Bê90, Bê2000 hay B gì đi nữa thì vô Sài Gòn cũng ăn phở với giá sống như điên, còn xét về mặt lịch sử thì câu đối này cũng có thể được coi là một bằng chứng “mang tính văn hóa” trong một giai đoạn lịch sử của phở vậy.

Thơ Phở và Câu đối Phở này cũng góp phần đưa phở vào văn học nước nhà, vì trước kia mới chỉ có vài bài tiểu luận về phở của mấy ông nhà văn tiền chiến thôi, mà tôi kêu đại là “văn phở”. Vũ Bằng, tác giả “Miếng Ngon Hà Nội” từng mô tả: “Nước dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng rẫy lên, nhưng ăn phở như thế mới ngon. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay của gừng, cay cái cay của hạt tiêu, cay cái cay của ớt. Thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu cái thơm của thịt bò tươi và mềm, rồi thì hòa hợp tất cả những vị đó lại, nước dùng cứ ngọt lừ đi, ngọt một cách hiền lành êm dịu, ngọt một cách thành thực…”

Nguyễn Tuân, tác giả “Vang Bóng Một Thời” thì mô tả cảm giác về phở: “Mùa nắng ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt thắm tươi lại…”

Còn “cây” truyện ngắn Thạch Lam thì bình luận: “Nếu là gánh phở ngon thì nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu dòn chứ không dai, chanh, ớt với hành tây đủ cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa”.

Gần đây thì một ông nhà văn nhà báo Hà Nội nhập cư Sài Gòn – cũng có cái tật cột phở vô đàn bà, thậm chí còn coi phở như vợ mình – khi bình luận về phở cũng khẳng định phở ngon thì nước phở phải trong: “…Người thủy chung với phở bao giờ cũng muốn nhìn tô phở nước trong, giống như người đàn ông trung thành với vợ, chỉ muốn nhìn ngắm nàng trong nét đẹp chính chuyên, không son phấn. Phở cũng vậy. Chẳng có người sành điệu nào lại nỡ tàn nhẫn đến độ cho cả tương đen lẫn tương đỏ vào tô phở của mình cả. Màu sắc ấy không phải là sắc màu cổ điển của tô phở đã định hình từ bao thập kỷ nay”.

Cung cách ăn phở thì vẫn còn là vấn đề tranh cãi, ăn thua quan niệm và khẩu vị của từng người. Một ông nhà văn Nam Kỳ là Trang Thế Hy thì trong lúc nói chuyện phở với bạn bè, đã nghĩ sao nói vậy theo kiểu phổi bò ruột ngựa, phang một câu… dễ xa nhau: “Tao là dân Nam Kỳ chánh gốc, vô quán phở, thấy tô phở nước trong khá đẹp, hấp dẫn, vậy mà có cha dzọng vô cục tương đen, ngó hết muốn ăn!”

Một số “phở gia” lại còn bàn rằng ăn phở thì ăn vào thời điểm nào mới tuyệt ngon? Ăn lúc sáng sớm thì đã đành là ngon rồi, hầu như đa số dân mình thường ăn phở lúc sáng sớm, bắt đầu một ngày làm việc, coi như bữa ăn sáng, bữa lót lòng. Nhưng có người lại cho rằng ngon nhất vẫn là lúc khuya khoắt “nửa đêm giờ Tý trống canh ba”, thả bộ lang thang trên đường phố, bụng đói, là đà con nhạn trong men say lẫn buồn ngủ mà lơ mơ nhớ lại những phiền muộn trong ngày, những bất hạnh trong đời, lúc đó mà “chơi” một tô phở nóng thơm lừng thì sẽ thấy tỉnh hẳn, tỉnh như cái con sáo sậu, để rồi lại thấy yêu đời như… thường lệ! Cũng vì lý do đó mà trong cái phong trào ăn khuya – đang trở thành thói quen của dân Sài Gòn hiện nay – phở vẫn là món được chiếu cố đông đảo.

Nhà văn nhà báo người ta mới dám bình loạn linh tinh các cái như thế, chứ tôi đâu là cái thá gì, lại bất tài vô tướng, cho nên hổng dám bàn ẩu về cung cách ăn phở của người khác, quyền tự do của người ta mà, miễn sao người ta ăn thấy ngon thì thôi, mặc kệ người ta, mình cứ ăn theo cách của mình, tại sao lại chỉ trích người ta, bắt người ta phải giống mình? “Không gì quý hơn độc lập tự do” mà! Ông bô tôi ăn phở kiểu Bắc Kỳ cổ điển, cho nên từ lúc di cư năm 1954 cho đến lúc ăn phở…. cúng, không bao giờ ăn loại rau thơm nào khác rau mùi (ngò) với lý do ngò là rau của phở, húng quế là của tiết canh và thịt cầy, húng giũi là của bò thui bê thui, kinh giới là của bún riêu, tía tô là của ốc ếch v.v… Đời tôi còn đỡ, chớ đời con tôi thì rau gì tụi nó cũng “phang” tá lả, chả còn theo sách vở gì ráo trọi. Con gái lớn của tôi năm nay 41, tâm sự với tôi: “Tiệm phở nào không có ngò gai thì đừng có hòng con vô!”. Nhiều lúc nghĩ cũng sợ là cha con tôi làm tủi vong linh ông cụ! Nhiều quán phở Sài Gòn bây giờ dọn ra đủ loại rau thơm, có nơi còn có cả rau xà lách nữa! Từ Bắc di cư vào Nam, phở đã nghiêm túc thực hiện nhuần nhuyễn câu tục ngữ “nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”, chẳng những có đủ rau thơm các loại, kể cả rau dấp cá, ngò gai, ngò om (là những thứ rau của canh chua Miền Nam)… mà còn cả giá sống (của hủ tiếu) nữa, giống như mảnh đất Miền Nam rộng mở vòng tay đón nhận dân nhập cư từ khắp miền đất nước, cũng như dễ dàng như đồng hóa mọi khác biệt văn hóa vậy.

Tuy nhiên đến nay vẫn còn một quán phở giữ đúng hương vị Bắc. Ấy là Phở Bà Dậu, người Nam Định, ở cuối Hẻm 288 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Công Lý cũ). Giới sành ăn gọi là phở Cây Trứng Cá, vì từ năm 1950, ở trước quán có một cây trứng cá lớn. Cách gọi tên dễ nhớ như vậy rất quen thuộc ở Sài Gòn – Mì Cây Nhãn, Mì Cây Gõ – chẳng hạn. Trải qua bao hưng phế tang thương, cây trứng cá không còn, bà Dậu cũng trở thành “người muôn năm cũ”, con trai bà là ông Bình nối nghiệp nhà, cho nên dù quán không có bảng hiệu, người ta cũng có thể gọi là phở Ông Bình, hoặc phở Lâm cũng không sao, vì anh chàng tên Lâm là người thâu tiền. Ở quán phở này, từ trước 1975 và đến cả bây giờ, người ta đã gặp khá nhiều nghệ sĩ, ca sĩ, nhà thơ nhà văn nhà báo… Ở đây bánh phở sợi nhỏ, mềm nhưng không nát. Nước lèo đậm đà cái vị ngọt thanh, dịu, của xương và tủy bò hầm rục, chứ không phải của bột ngọt, của đường. Các loại thịt nạm, gầu, sụn, gân, giò, vè, nạc… đâu ra đó. Không có bất cứ loại rau gì kèm theo, chỉ có hành tây và những cọng hành trần. Yếu tố hấp dẫn của bất cứ quán ăn nào cũng không chỉ là cách nấu món ăn, mà còn là cung cách phục vụ, hiểu ý khách. Hồi thời bao cấp, cửa hàng ăn uống còn là của nhà nước, từ anh chạy bàn đến cô thâu ngân bán phiếu đều là cán bộ, thực khách xếp hàng mua phiếu vô ăn bị coi như đi ăn xin, nay thì lại quay 180 độ cái rẹt, trơ trẽn tôn xưng khách hàng là “thượng đế”! Nhưng ở quán phở Minh và phở Bà Dậu thì khác, trải bao vật đổi sao dời mà thời nào cũng vậy, khách chỉ đến quán vài lần là chủ quán biết ngay cái gu ra sao, và còn nhớ mặt. Sài Gòn hiện nay có cái nạn tốn tiền gửi xe khi đi ăn uống – nhiều khi gửi rồi mà vẫn mất xe như thường – nhưng nơi đây gửi xe không mất tiền, có người trông coi chu đáo. Nếu là khách quen thì cứ việc lững thững bước vào, thong thả ngồi xuống ghế. Không cần lên tiếng gọi, chỉ sau khoảnh khắc, một tô phở đúng ý được ân cần bưng ra, đặt nhẹ nhàng ngay trước mặt, khói nghi ngút thơm điếc mũi. Người đến ăn tưởng mình không phải đến quán, mà có cảm giác như ăn ở nhà người bạn thân vậy.

Cái gánh phở mới xuất hiện trên lề đường Chi Lăng Phú Nhuận nói ở đầu thư khiến tôi nghĩ đến những người ngày xưa từ Bắc vô Nam chỉ có gánh phở trên vai, mà rất tự tin rời bỏ quê nhà đi lập nghiệp. Một gánh phở dựng lên, rồi truyền nghề lại cho con, cho cháu. Và cũng chính nghề ấy đã tạo cho con cháu họ một hiện tại, một tương lai như ngày nay. Con cháu họ hôm nay học lên Đại học, du học ngoại quốc, đi khắp năm châu bốn biển cũng chỉ bắt đầu từ một gánh phở của ông cha. Chính ông Minh, ông An đã tự hào khi tâm sự với khách như thế. Chắc chắn còn có nhiều người bán phở cũng tự hào như thế.

Nhưng phở Hòa thì lại là trường hợp ngoại lệ – ngoại lệ đến cái độ tréo ngoe – vì chủ phở Hòa sau này lại là người Miền Nam, nhưng vẫn tự hào phở Hòa của mình mới là “phở Hòa gin” (từ tiếng Pháp “origine” – nguyên chất, nguyên gốc). Số là khoảng những năm 1950, có một người Bắc di cư vào ở Xóm Mới (Gò Vấp), tên là Hoánh, không rõ họ gì. Cứ vào lúc xế chiều, ông Hoánh đẩy xe phở đến vỉa hè Ngả tư Pasteur – Hiền Vương (Võ Thị Sáu bây giờ), bày ra vài cái bàn và ghế đẩu, bán cho khách ăn tối, ăn khuya. Xe phở ấy có tiếng là ngon với nước lèo trong và ngọt, bánh phở mềm, có đủ loại thịt theo ý khách. Do đó, tuy là xe phở vỉa hè nhưng khách ăn rất đông, nhất là dân chơi khuya từ các hộp đêm, vũ trường ra thường coi xe phở ông Hoánh như điểm hẹn cuối cùng. Để khách dễ nhận diện mà tìm đến, ông Hoánh nghĩ là phải có một bảng hiệu nhỏ treo ở xe phở của mình, nhưng không biết đặt tên gì cho dễ nghe, vì cái tên Hoánh của ông nó kỳ cục quá, ông bèn chọn cái tên Hòa, chẳng có liên quan gì tới ông, có thể chỉ vì cái tên Hòa nghe nó có vẻ… hiền hòa mà thôi. Từ đó xe phở ông Hoánh có tên phở Hòa. Theo lời kể của bà Cao Thị Xiêm, chủ tiệm phở Hòa hiện nay, thì công thức nấu phở từ xe phở Hòa ông Hoánh đến phở Hòa Pasteur ngày nay vẫn không có gì thay đổi. Chẳng những lưu truyền công thức, mà cả cái tên Hòa cũng đứng vững cả nửa thế kỷ. Điều tréo cẳng ngỗng là bà Xiêm lại chẳng có họ hàng bà con hoặc dây mơ rễ má gì với ông Hoánh cả. Bà là dân Nam Kỳ rặt, quê ở Trà Vinh, còn ông Hoánh là dân Bắc Kỳ “ri cư”. Nhưng duyên số lại sắp xếp bên cạnh xe phở ông Hoánh có xe nước mía ăn theo của ông Phan Anh Ngoạt – dượng của bà Xiêm. Khi đó vợ chồng cô và dượng của bà Xiêm ở Sài Gòn không có con, mới nhận đứa cháu gái tên Xiêm từ Trà Vinh lên làm con nuôi. Ông Hoánh bán phở được một thời gian thì đổi nghề qua chạy xe, nuôi chim cút… và xe phở được chuyển sang cho ông Ngoạt. Ông Ngoạt vẫn giữ nguyên tên phở Hòa, giữ nguyên cả cách nấu phở và khách hàng quen thuộc. Sau thì ngày một khá giả, xe phở trở thành tiệm phở Hòa đường Pasteur, đứa cháu gái làm con nuôi trở thành bà chủ. Sau 1975, ông Hoánh ra định cư ở nước ngoài, vợ chồng ông Ngoạt cũng ra người thiên cổ. Trong cái dòng hợp lưu Nam-Bắc ấy, không biết từ bao giờ phở Bắc đã biến thành phở Sài Gòn. Trước hết là sự thay đổi phẩm chất và mùi vị của nước lèo. Phở Bắc chính cống thì nước lèo chỉ là nước hầm xương bò đã lóc hết thịt, hớt bọt rất kỹ. Còn nước lèo của phở Sài Gòn thường cũng được hầm từ xương bò, nhưng lại bỏ thêm tai vị, tôm khô, mực khô, nhiều nơi còn nện cả…. củ cải vô! Vì thế phở Bắc thường hơi gây gây mùi bò, còn phở Sài Gòn thường bị gia vị phụ lấn mùi. Nhưng phở Hòa thì khác, không Bắc rặt mà cũng chẳng lai Nam, mà là phở Việt Nam. Bà Xiêm cho biết phở Hòa không được hầm từ xương, mà từ mỡ, tủy, và gân bao quanh các tảng thịt (mà bà gọi là “da tái”), và cũng được hớt bọt rất kỹ. Vị ngọt của nước lèo phở Hòa là thứ ngọt thanh, không còn gây mùi bò. Một số thực khách, kể cả du khách ngoại quốc, vào tiệm có khi chỉ cần ăn phở “không người lái” (không có thịt) là đủ. Ngoài cái ngọt của nước, cái mềm của thịt, và nhất là mùi thơm của cả nước lèo lẫn các loại thịt chín, phở Hòa ngày nay còn quyến rủ người ăn bởi ưu điểm sạch sẽ, đầy đủ rau, giá, tương, ớt, nhất là tác phong chiều khách của các nhân viên phục vụ. Yêu cầu của khách được đáp ứng rất nhanh. Muốn ăn tái, chín, gầu, giò, vè, sách, nạm, gân… đều có đủ. Người ăn cũng có thiện cảm với những lát chanh mọng nước xắt khéo, những khoanh ớt tươi đầy ụ trên đĩa do chính bà chủ cầm dao xắt hằng ngày. Chính cái mùi thơm, cái vị ngọt mềm thâm niên trên 40 năm trong nghề phở ấy đã tạo nên một sự nghiệp vững vàng.

Cái nồi phở liu riu hằng ngày ấy đã nuôi sống, rồi làm giàu cho một gia đình gồm vợ chồng với 6 đứa con (4 trai, 2 gái) nay đều thành đạt. Một cậu đã ra trường là Kỹ sư Điện tử, 2 cậu đang học Công nghệ Thông tin ở Úc, một cậu đang học Đại học Bách Khoa, 2 cô con gái đang học Nghiệp vụ Du lịch. Kể từ khi đất nước đổi mới, phở Hòa càng đông khách nhờ người dân Sài Gòn bắt đầu kiếm ra tiền, cuộc sống ngày càng khá hơn, Sài Gòn cũng ngày càng xuất hiện nhiều du khách ngoại quốc hơn, chính quyền thành phố thấy có ăn, bèn đòi… liên doanh với phở Hòa, bà Xiêm cũng thấy liên doanh là có lợi cho cả đôi bên, cho nên giờ đây phở Hòa đã trở thành một doanh nghiệp liên doanh nhỏ với 20 nhân viên, công nhân, và đã trở thành địa chỉ ẩm thực quan trọng trong các cẩm nang du lịch của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… đồng thời còn được giới thiệu trên các báo chí ở Mỹ, Úc… Cô Phương Châu – Kế toán viên của Công ty Cổ phần Du lịch Quận 3, là đơn vị nhà nước liên doanh với phở Hòa – cho biết, hằng ngày có đến 600-700 thực khách đến với phở Hòa, trong đó có nhiều khách nước ngoài. Phở Hòa đóng thuế cho nhà nước 25-26 triệu đồng mỗi tháng, con số không nhỏ. Tên “Hòa” cũng được “đăng ký sở hữu công nghiệp” để chống cạnh tranh không lành mạnh, chống kiểu “hàng dỏm, hàng nhái” đang xuất hiện lia chia trên thị trường hiện nay. Lý do là cách nay khá lâu, trên một số tờ báo ở Sài Gòn có một dạo đăng quảng cáo “Phở Hòa đã dời về đường An Dương Vương, gần chợ An Đông”, báo hại khách đến phở Hòa ăn đều hỏi tới tấp, hóa ra phở Hòa An Đông là phở Hòa dỏm, không phải là phở Hòa Pasteur. Mặc dầu đã “đăng ký thương hiệu”, nhưng bà Xiêm cũng chẳng kiện tụng gì – vô phước đáo tụng đình mà – cứ để thực khách làm “quan tòa”. Một tiệm phở khác mở kế cận phở Hòa lấy tên là phở Hoa (không có dấu huyền). Nhưng chỉ thời gian ngắn, thực khách đã phân biệt Hòa thật với Hòa dỏm, Hòa nhái! Hai tiệm phở dỏm và nhái đó ế ẩm, phải dẹp tiệm!

Chuyện ăn uống thì trăm người trăm ý. Không phải ai cũng khen phở Hòa, nhất là những thực khách gốc Bắc vào Sài Gòn sau này, vốn chỉ quen với phở Bắc, nhưng hầu hết giới sành ăn ở Sài Gòn trước 75 – nhiều người từng ăn phở Hòa từ lúc còn là xe phở vỉa hè, nay tuổi hạc đã cao – vẫn là những thực khách trung thành. Dù bà Xiêm có kiện phở Hòa dỏm ở Sài Gòn thì cũng khó lòng kiện được phở Hòa dỏm ở nhiều nước hải ngoại, mà ra hải ngoại để mở phở Hòa Thiệt, bà cũng chẳng ham. Cùng với mấy triệu người Việt sống ở hải ngoại, mùi phở VN dần dần bay xa khỏi biên giới đất nước. Đã có nhiều Việt kiều từ Mỹ, Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc… gửi lời mời với lương bổng, lợi tức hấp dẫn để bà Xiêm qua nấu phở, nhưng bà từ chối. Cũng có người hỏi, sao không mở rộng kinh doanh phở Hòa ra thành một hệ thống gồm nhiều chi nhánh như Phở 2000 chẳng hạn, bà Xiêm cho rằng phải biết lượng sức mình, thành công của phở Hòa nhờ ở phẩm chất, nếu mở ra nhiều địa điểm sẽ không có người trông coi, phẩm chất kém đi sẽ mất uy tín, vả lại căn tiệm bề thế hiện nay – có thể gọi là “Nhà hàng phở ” – phục vụ một lần tới 150 thực khách là đã “quá đạt yêu cầu” của bà rồi, bà không quá tham lam, lại đã lớn tuổi, con cái đều thành đạt, bà không ước mong trở thành đại phú.

Trong khi bà chủ phở Hòa “chánh hiệu Bà Lang Trọc” trên đường Pasteur bằng lòng với cái tiệm phở duy nhất ở Sài Gòn có tới 600-700 lượt khách mỗi ngày của mình và phát triển dưới hình thức liên doanh với nhà nước, thì bà không thể biết hiện nay trên đất Mỹ và các nước khác trên thế giới có bao nhiêu tiệm phở, lý do dễ hiểu là các tiệm phở ấy không hề có liên hệ bà con thân thuộc gì với bà, có chăng là cùng họ Hồng Bàng. Trên thực tế, tất cả những tiệm phở Hòa hải ngoại đều là phở Hòa dỏm, cũng như những tên gọi phở Công Lý, phở Hiền Vương, phở Pasteur… ở hải ngoại chỉ được dùng để đánh vào lòng hoài niệm của kẻ tha hương. Tất nhiên là về tình hình phở hải ngoại thì tôi mù rồi, nhưng may là ngày nay nước ta văn minh tiến bộ lắm, ngon lành lắm, nhiều tờ báo có phóng viên thường trực ở nhiều nước trên thế giới – đến cả cái nước Áp-Gha-Nít-Tăng ở mãi tận hóc bà tó kia mà cũng có phóng viên VN ăn dầm ở dề để hằng ngày gởi tin tức bài vở về nước nữa là – cho nên tôi cũng như đông đảo dân Sài Gòn ngày càng được biết nhiều về sinh hoạt của người Việt hải ngoại, kể cả những chuyện khó tin nhưng có thật. Chẳng hạn một bài báo kể rằng ở Cali có ông Y sĩ tốt nghiệp Đại học Y khoa Cali đã bỏ nghề cứu nhơn độ thế để mở tiệm phở, bây giờ có đến 5 tiệm lớn, kiếm tiền còn bộn hơn nghề y sĩ nhiều. Có điều, bề thế nhất vẫn là hệ thống phở Hòa ở Mỹ. Hồi năm 1999 là thời điểm phở tại Việt Nam khủng hoảng vì cơn sốt phọt-môn, thì bên ngoài Việt Nam, phở đã vươn về tới Á Châu, đến tận Hán Thành. Rồi một nhà báo Sài Gòn đi dự SEA Games 19 ở Indonesia, lang thang các đường phố thủ đô Jakarta, đã bất ngờ gặp cái bảng hiệu phở Hòa ở một tiệm phở. Chủ quán phở người Indonesia cho biết đã học nấu phở từ một tiệm phở Hòa ở California. Về Jakarta mở tiệm phở, ông ta đã trương bảng hiệu tiếng Việt, chỉ vì yêu món ăn VN này và muốn giới thiệu với đồng bào của ông, chớ đào đâu ra khách người Việt ở Jakarta! Hương Cảng cũng có một tiệm phở mà ông chủ là …người Tàu chưa từng đặt chân đến VN v.v…

Trong khi bà chủ phở Hòa Pasteur chẳng thiết đem cái thương hiệu của mình ra kinh doanh thêm để trở thành đại phú, cũng chẳng thưa kiện ai, thì phở Hòa (dỏm) ở Mỹ đang bành trướng để hốt bạc. Phóng viên VN ở California gửi bài viết về Sài Gòn cho biết, từ năm 1983, quán phở Hòa đầu tiên mở tại San Jose, đến năm 1995, Công ty Aureflam – sở hữu chủ thương hiệu phở Hòa tại California và phở Công Lý tại Texas – đã mở cả thảy 41 tiệm phở tại Mỹ, Gia Nã Đại, Đại Hàn… trong đó phở Công Lý có 5 tiệm. Người mở tiệm phở, muốn lấy thương hiệu phở Hòa hay phở Công Lý thì phải trả tiền tác quyền 12.500 USD… Ôi, đã chôm thương hiệu của người ta để hốt bạc túi bụi, rồi còn đem bán lại búa xua như vậy, sao mà khéo kinh doanh thế không biết! Cuối cùng thì phở Hòa Pasteur vẫn không sợ hệ thống dây chuyền Phở 2000 của ông Việt kiều Mỹ Huỳnh Trung Tấn cạnh tranh, mặc dầu hệ thống này được tổ chức kinh doanh theo kiểu Mỹ, có những địa điểm tốt, những cơ sở bề thế. Bởi vì tôi cũng như nhiều dân ghiền phở ở Sài Gòn đều “nhất trí cao” với nhận xét của một ký giả nào đó, rằng Phở 2000 chỉ là “phở cao giá” mà không phải là “phở cao cấp”, dành cho những kẻ dư tiền, muốn “tự khẳng định”, chớ chưa chắc đã là những địa điểm thu hút người sành phở.

Hồi cuối năm 2000 thì ông Tổng thống Mỹ Lin-Tơn đã đến với phở Sài Gòn. Rời phố đồ cổ vào lúc 11g45 phút trưa, cha con ông Lin Tơn vào tiệm “Phở 2000″ tại Cửa Tây Chợ Bến Thành, ở số 1 và 3 đường Phan Chu Trinh. Tất nhiên là trong chuyến đi của ông, từ một chi tiết nhỏ cũng được sắp xếp trước, và chính quyền thành phố chọn món phở cho ông thưởng thức là rất đáng hoan nghênh. Ở Hà Nội đã bị xem kịch Tây, vào Sài Gòn mà lại bị chiêu đãi bít-tết hay bánh bi-dzà thì thảm lắm! Còn tại sao Phở 2000 được chọn, thì lý do rất giản dị – đây là tiệm phở lớn nhất, sạch nhất, văn minh nhất Sài Gòn, chứ chưa hẳn là ngon nhất. Tôi mới chỉ vô ăn phở ở tiệm này được 2 lần, phần vì xa nhà, đường phố khu trung tâm lại kẹt xe thường xuyên, phần vì phở ở đây cũng chẳng có gì thật xuất sắc, không phân biệt được với những tiệm phở ngon khác, giá tiền lại mắc hơn chút đỉnh, nói tóm lại là Phở 2000 chưa “tự khẳng định” được.

Tôi là tín đồ đạo Phở, mê phở từ lúc chưa mọc răng. Bà bô tôi kể lại rằng hồi tôi được 7-8 tháng, cho ăn bột mà rất lười ăn, nhưng một lần ông bô tôi gọi phở gánh đi ngang cửa nhà ở đường Hiền Vương (phố Montgrand cũ) Hà Nội, tự nhiên bà bô tôi nảy ra sáng kiến là hòa thêm chút nước phở vô bát bột rồi xúc cho tôi ăn, thế là thằng bé cứ há mồm ra mà ăn lấy ăn để. Lớn lên, tôi giống ông bô tôi ở chỗ chọn phở, không chọn tiệm, bởi thế bố con tôi mới sáng sáng cất công từ đường Hiền Vương, gần hồ Thuyền Quang (Hồ Halais) mò lên tận phố Hàng Vôi để đứng sắp hàng ăn phở gánh Hàng Vôi ngoài vỉa hè, gần Ấu Trĩ Viên Hà Nội.

Với Sài Gòn hôm nay, Phở 2000 thì sang nhất rồi, đẹp nhất rồi, sạch nhất rồi, cách sắp xếp, tổ chức cũng nhất, cái gì cũng nhất, kể cả trẻ nhất, nhưng phở thì chưa ngon nhất. Tiệm chưa “tự khẳng định” được, chỉ có khách vô Phở 2000 là để “tự khẳng định”, vì toàn là dân sang, ngồi xế hộp, giá chót cũng cỡi Dream xịn, giắt theo điện thoại di động. Ăn Phở 2000 là “tự khẳng định” thành phần xã hội. Thành thử sắp xếp cho ông Lin-Tơn vô Phở 2000 cũng là đúng thôi, vì Phở 2000 là “phở quý tộc”, với nhà bếp sạch bóng, tổ chức kiểu Mỹ, nhân viên trên dưới đều mặc đồng phục đẹp mắt, nhân viên nhà bếp thì ngoài đồng phục còn đội nón vải trắng tinh để bịt tóc v.v…

Cách nay không lâu, hồi tiệm phở này mới khai trương, tôi đã có hẳn một chuyên đề phở báo cáo bạn hiền rồi, dịp này, cũng xin bổ sung chút đỉnh. Phở 2000 mới chỉ được thai nghén… tình cờ gần đây thôi. Người sáng lập là ông Huỳnh Trung Tấn, tuổi ngoài 40, cái tuổi đẹp nhất để lập sự nghiệp. Gia đình ông Tấn qua Mỹ từ năm 1975, kinh doanh nhà hàng, và ông Tấn cũng là một trong những Việt kiều Mỹ trở lại VN sớm sủa nhất. Từ năm 1989 đến nay, ông đã lần lượt sáng lập nhiều nhà hàng lớn theo thể thức liên doanh ở Sài Gòn như Le Mekong, Vietnam House, Blue Ginger, Lemon Grass v.v… với mục đích là giới thiệu các món ăn VN với người ngoại quốc trong khung cảnh văn hóa VN. Ông Tấn kể rằng trên chiếc Boeing của Hàng không Tân Gia Ba cất cánh từ Cựu Kim Sơn (San Francisco) trong một lần trở lại VN, ông say sưa đọc cuốn hồi ký tựa đề Starbucks Coffee – mà cô em gái tặng ông ở phi trường San Francisco – nói về chuyện làm ăn của tác giả trong lãnh vực mở quán càphê. Tự nhiên ông nghĩ rằng phải làm ăn theo kiểu Starbucks, như kiểu McDonald, Burger King, KFC, nghĩa là đi theo mô thức phát triển hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh, tức là làm franchise. Tôi đâu biết “phen-chai phen-lọ” là cái quái gì, nhưng ký giả Thục Đoan giải thích là “một công ty cho phép công ty khác sử dụng công nghệ và nhãn hiệu nổi tiếng của mình để kinh doanh”. Có điều khác ở chỗ, thức ăn nhanh ở đây không phải là ổ bánh mì Bưu Điện, mà là tô phở VN. Do đó ông Tấn quyết định thành lập “Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Phở 2000″ với số vốn luật định là 500 triệu đồng VN. Mục tiêu ngắn hạn là sẽ mở 5 tiệm Phở 2000 tại Sài Gòn, một số tiệm ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Nha Trang…

Hiện nay Phở 2000 đã đăng bộ độc quyền nhãn hiệu trong nước và ở nước ngoài. Dự trù là nay mai Phở 2000 sẽ có những tiệm đầu tiên ở Tân Gia Ba, Hương Cảng, và ở cả bên Mỹ nữa. Một hệ thống phở tầm cỡ như thế mới xứng đáng đón tiếp cha con ông Lin-Tơn. Cha con vô tiệm thì dân chúng lại tụ tập đón chờ bên ngoài, chờ ổng ăn xong đi ra để được… bắt tay! Trong đám đông có 3 thiếu nữ xinh tươi, bận đồ vía như ngày hội, là Nguyễn Kim Thanh, Nguyễn Kim Oanh, và Vũ Phương Lan, xôn xao bàn tán chỉ trỏ. Từ dưới đường, người ta có thể thấy rõ bố con ông Clinton ngồi ăn tại một cái bàn gần cửa sổ. Các cô cho biết từ 8g30 phút sáng đã đứng đợi ở phía Tòa Đô Chánh cũ, vì theo chương trình Tổng thống Clinton sẽ ghé đây để gặp các nhà doanh nghiệp Mỹ gốc Việt, nhưng các cô không biết là buổi chiều mới đến mục đó. Cô Phương Lan xuýt xoa:

“Bọn em cố đến sớm, xếp hàng đầu tiên sát hàng rào, hy vọng sẽ được bắt tay… “Anh Bill” (?)”.

Ối dzời! “Anh Biu” đào hoa mà ở lại Sài Gòn ít ngày nữa thì cô Phương Lan cũng như khối cô gái Sài Gòn khác sẵn sàng làm những “Monica made in Saigon” ngay thôi! Sau một tiếng đồng hồ ăn uống, anh Biu ra cảng Tân Thuận để gặp gỡ một số nhà doanh nghiệp Mỹ. Ngay sau khi ảnh đi khỏi, không khí tiệm Phở 2000 nhộn nhịp, tưng bừng quá cỡ, cứ là vui còn hơn Tết. Bà chủ Nancy Le (họ Lê) là Việt kiều Los Angeles, về làm ăn ở Sài Gòn từ 5 năm trước đây. Bà đã mở 2 tiệm phở, và Phở 2000 là tiệm thứ 3 mới mở được 1 năm. Phở của bà có đặc tính là nấu bằng nước lọc tinh khiết, các loại rau được rửa và sắp xếp từng lá một. Bà sung sướng khoe là ông Lin-Tơn đã ăn 2 tô phở – 1 tô chín và 1 tô phở gà không lấy da (đã được dặn dò trước) và khen ngon lắm, “gút” lắm. Ổng còn uống hết ly sinh tố xoài, ly cà phê sữa đá, và chai nước suối. Bà cho biết cà phê phải pha loãng và nhiều sữa, vì cà phê kiểu VN rất “nặng” đối với người Mỹ. Bà hớn hở khoe tiếp:

“Chính tôi nấu phở cho ông ấy ăn!”

Cô Trương Thị Phương Hà, kế toán trưởng của tiệm, hứng phấn nói là sẽ giữ lại từ cái ghế ông Clinton đã ngồi, những cái tô, ly, muỗng nĩa, đũa ông đã sử dụng, để trưng bày trong một tủ kính. Cô hãnh diện:

“Em sẽ đề nghị bà chủ viết hàng chữ là “Nơi đây Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã đến ăn phở, và đây là những vật dụng Ngài đã dùng…”

Còn cô Hoàng Kim Vân, 22 tuổi, tốt nghiệp Đại học Tin học Thành phố Nam Định, kiếm việc không ra, chỉ mới vào Sài Gòn làm tại tiệm phở này 3 ngày nên chưa có bảng tên, phải đeo bảng tên của cô Chi làm ca chiều. Cô nói cô là người may mắn nhất, vì mới vào làm đã được bắt tay Tổng thống Mỹ! Cô tỏ vẻ xúc động:

“Sẽ chẳng bao giờ cháu được niềm vinh hạnh như vậy trong suốt đời cháu, dù là với vị nguyên thủ nước nào”.

Trên hai chục nhân viên trong tiệm đều vui sướng, mãn nguyện, dù họ rất mệt mỏi vì căng thẳng. Hơn 1 tiếng đồng hồ bố con ông Lin-Tơn ngồi trong tiệm đã tạo không khí căng thẳng, lo âu cho toàn thể nhân viên, vì chỉ sợ có những sơ sót. Bà chủ cho biết đã tăng cường thêm người từ ca chiều lên, nên một số nhân viên phải làm việc liên tục 2 ca. Bà tỏ ra hào phóng:

“Tôi sẽ bồi dưỡng cho anh chị em nhân viên. Cả đời tôi biết bao giờ mới lại được đón tiếp một vị nguyên thủ Hoa Kỳ vào cửa tiệm của mình”.

Thế là Phở 2000 đã đi vào lịch sử! Trong tương lai gần, ông Lin-Tơn có thèm phở thì sẽ có thể ăn Phở 2000, biết đâu lại mở ở Nữu Ước, là nơi mà ổng mới mua nhà và bả có Văn phòng Nghị Sĩ. Làm một tô phở tỉnh người, rồi tán dóc về phở – nói theo kiểu văn chương báo chí Sài Gòn là “tản mạn phở” hoặc “một thoáng phở”, rồi về viết một “lá thư phở” gởi bạn hiền, thấy con người hân hoan thơ thới gì đâu!

(Người Tân Định)

24 thg 7, 2012

Bồ đào tửu đạo

(Hàn Thủy)


l. Say rượu đấm ma

Ai chẳng thuộc lòng câu ” Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi…”, nhưng cũng có khi tự hỏi rượu bồ đào ngày xưa ở Trung quốc là rượu gì. Xin thưa đó chính là rượu nho, quả bồ đào là quả nho. Từ bốn nghìn năm trước công lịch người Su-me đã biết làm rượu nho, truyền tới người cổ Ai Cập, nguời cổ Hy Lạp rồi người La Mã tiếp tục mang cái bí quyết ấy theo gót chân chinh phục đi khắp vùng Trung Á, ven bờ Ðia Trung Hải và châu Âu. Ðến thế kỷ thứ sáu, thứ bảy thì đã mở ra con đường tơ lụa, mà nói như ngày nay đó là cái tuyến xuất nhập cảng giữa Trung Quốc và vùng Trung Á. Cho nên khi Vương Hàn viết bốn câu cảm khái ấy vào thế kỷ thứ tám có nói tới rượu nho cũng không có gì lạ, chỉ lạ rằng hình như về sau trong văn thơ Trung quốc lại ít thấy xuất hiện bồ đào mỹ tửu. Rượu nho Trung Quốc ngày nay, uống thử thấy cũng tàm tạm, nhưng chưa thể gọi là mỹ tửu.

Vòng vo như vậy để hoá giải cái tàn dư của mặc cảm rằng chuyện rượu là chuyện không nghiêm chỉnh, người viết bài này đã có một thời nếu không phải hồng vệ binh thì cũng hồng vệ … tinh, chẳng mao ít cũng mao nhiều.

Rượu làm cho người ta vui, câu vui khó nói, lại có những câu khó nói chỉ nói được những lúc thật vui, mức ức chế (inhibition) hạ thấp, phải chăng là lấy cái vui để ức chế trở lại cái buồn, cái sợ. Vui quá đáng cũng là buồn quá đáng.

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi *

Nỗi buồn chiến tranh chưa thật qua đi nhiều nỗi buồn khác đã dậy lên, xin các bà các cô hiểu cho cánh đàn ông, khi bạn bè gặp nhau thuờng có vài ly làm đầu câu chuyện, cái phái nam thực ra vốn là phái yếu. Ðó là nói về cái phần giữ gìn bản sắc, không kể cái phần hội nhập, khi giao tiếp, trong những bữa cơm ngoại giao hay kinh doanh, người ta lại hay mượn rượu để bẫy nhau. Con trai con gái khi mới thành niên nên thử uống chút rượu trong những bữa tiệc gia đình, để biết cái giới hạn của mình, tránh khi ra đời thất thố.

Rõ ràng rượu là một vấn đề văn hoá rất nghiêm chỉnh (tuy rằng nên dùng có chừng mực, à consommer avec modération, theo như câu bắt buộc ghi trong quảng cáo), cũng như ẩm thực nói chung. Nếu chỉ ăn để mà sống thì nên hạ sắc lệnh mở Mac Donald khắp nơi cho rồi. Nói như vậy người viết bài này không có ý chê gì MacDo, ngược lại vẫn bái phục sát đất những người đã sáng tạo nên thứ quán ăn không đầu bếp này, đúng là tiền đề cho kỹ nghệ hoá, sạch sẽ, hợp vệ sinh, giá cả phải chăng. Chỉ xin được không phải ngày nào cũng ăn BigMac,cũng như xin không phải ngày nào cũng ăn phở. Ða diện đa dạng là cần, giao lưu văn hoá là cần. Nói chuyện rượu nho để phục vụ sự giao lưu văn hoá, vì vậy nếu bị những vị nào táo bón đập bể bình thì cũng đành, bậc tiền bối tài danh như Nguyễn Tuân bàn chuyện phở, bảo vệ văn hoá dân tộc đến mực như thế còn bị đập, huống chi ! Nhưng phải chăng tôi đang đấm đá với bóng ma? thời ấu trĩ qua rồi và có những vị từ ấu trĩ bỗng già cỗi, mục ruỗng mà chưa một lần thanh xuân, càng dễ hơn khi có trong tay quyền lực, chẳng phải lỗi tại ai, lịch sử. Ðáng buồn, và cũng còn đáng sợ khi họ vẫn nắm quyền lực.

Cho nên cái thanh xuân là quý giá vô cùng, để cho hai câu thơ Bùi Giáng tươi mát như thế bị ô nhiễm trong đầu như kẻ hèn này thật là có tội với văn chương, và đáng tiếc cho mình. Thôi trở về với rượu, giữ cho ruợu không bị ô nhiễm trong thời gian trưởng thành dễ hơn. Chỗ giữ rượu không nên giữ bất cứ cái gì khác có mùi, như hành, tỏi, gạo, v.v… Cứ nghĩ là nút chai chặt, hề gì, nhưng không, sau năm mười năm hay hơn thế, những phản ứng vô cùng tế vi cũng xuyên qua nút chai, tích tụ lại cái sức tàn phá, uổng công chờ đợi. Nếu bạn lại để rượu trong chỗ để xe thì nên dọn ngay đi, nếu không trong đời bạn nên uống bia là hơn cả. Ngoài ra cần một chỗ tối, mát, thoáng khí vừa phải, ẩm vừa phải, có cửa đóng kín. Tốt nhất là để trong hầm nửa chìm nửa nổi, hướng Bắc, dưới nền đất, trên có chỗ thông hơi.

Ðời sống chai rượu kín đáo là như thế, nhưng có cái thứ gì trên đời tượng trưng cho sự giao lưu văn hoá đa diện đa dạng bằng rượu nho chăng ? Ngày nay người ta đã sản xuất rượu nho ở khắp nơi, trừ những xứ đạo Hồi, những vùng tuyết phủ hay những vùng quá nóng ẩm. Califonia, Chile, Argentina, Úc châu đều bắt đầu có rượu nho ngon, chứ không phải chỉ khắp châu Âu, dù cho bá chủ tửu lâm vẫn là rượu Pháp. Cả thế giới có đến hơn 5000 giống nho khác nhau, trong đó để làm rượu được dễ cũng đến vài trăm, lại còn thổ ngơi, khí hậu, lại còn cách lên men, cách cất giữ. Cho nên nếu nói về những sự phức tạp trong cõi đời thường thì chỉ một mục rượu nho cũng đã quá ư phức tạp. May mắn thay sau mấy trăm năm kinh nghiệm người ta đã sàng lọc, thích nghi, kết hợp giống, đất, khí hậu và cách làm để sản xuất một số tương đối nhỏ những loại rượu. Ở đây nói về rượu Pháp, nhưng bạn có thể đọc trên nhãn chai của rượu các nuớc khác, nhất là Mỹ, thường có ghi tên giống nho, để sử dụng tương tự như những rượu Pháp cùng giống, theo những kinh nghiệm lâu đời. Ðể ý là hình dạng chai rượu thay đổi tuỳ theo vùng, nhưng cũng không đáng kể lắm, vì trong mỗi vùng nhiều thứ rất khác nhau.

2. Từ chai rượu đến ly rượu

Cái ly rượu cũng nhiều hình dạng thay đổi theo từng loại từng vùng, nhưng đó là kiểu cách truyền thống, chủ yếu cần ly thuỷ tinh trong, tuyệt đối không màu, thật sạch và khô. Ðừng bao giờ rót rượu nho đầy ly, phải để lại vài phân giữ cái hương thơm. Trước hãy giơ ly rượu soi lên ánh sáng ngắm cái màu hồng ngọc, màu bourgogne trong veo hay màu bordeauxtrong sẫm. Trên bề mặt nước rượu phải sáng, rượu còn non thì ven bờ tròn trịa, khi ven bờ hơi ngả sang màu hổ phách thì đã đủ già, nếu nước rượu chuyển hẳn sang màu gạch thì quá già rồi. Màu rượu trắng ít quan trọng hơn, hơi có ánh xanh là thứ rượu thật trẻ và thật khan (sec), vàng nhạt mỡ gà thì rượu dịu hơn, càng để lâu càng thẫm màu. Muốn thử tuổi rượu nữa thì nghiêng ly tới sắp trào rồi để nhanh lại thẳng, cái vết ẩm từ bờ ly tới bờ rượu này tiếng nhà nghề gọi là chân jambe, nếu nó lưu luyến lâu mới đi thì gọi là có chân dài, độ cồn cao, còn giữ trong hầm được nhiều năm nữa, nói nhảm cho dễ nhớ là trường túc bất tri lao, chân dài không mỏi. Ðể ly rượu gần miệng, chưa uống, xoáy ly nhè nhẹ cho rượu toả hương thơm, hả cái niềm ấm ức bị giam hãm bấy lâu nay. Nhấp một ngụm để trên đầu lưỡi nếm những vị mặn ngọt, khi trôi vào hai bên má nổi lên vị chua, chảy vào cuống họng hiện ra vị đắng. Bây giờ thì ruợu đã ấm, hơi thơm bay ngược phía trong mũi. Nuốt vào, cái chất chát còn níu lại. Ðặt ly xuống, lặng yên. Vị giác và khứu giác tràn đầy. Rồi phảng phất hương hoa đồng cỏ nội, hương bánh trái tuổi thơ, hương đất, hương trời, hương người. Rồi lãng đãng những khoảng không thời gian riêng tư, một khuôn mặt sáng dịu dàng, một hơi thở nồng ấm. Rồi có thể trở về những bóng ma riêng tư, có thể hé nở những vết thương riêng tư, có thể bật cười những chuyện nhảm riêng tư. Rượu nho tuyệt hảo là nước uống của thiên thần, người phàm tục nên dùng có chừng mực.

Ðộc ẩm, đối ẩm, cùng dăm ba bạn bè hay khi xã giao thù tạc đều nên tôn trọng nguyên tắc này, mùi và vị là không gian của riêng tư, thưởng thức rượu đúng quy củ như trên chỉ để nhẹ chân bước vào cái không gian ấy. Cho nên nói, không nói, trao đổi những ý tưởng chợt tới hay lặng yên ngẫm nghĩ một mình đều lịch sự giữa những người lịch sự. Ðó là tóm tắt bài vỡ lòng đi vào bồ đào tửu đạo. Trong hương vị rượu nho có thật có tất cả những thứ ấy không ? Rằng có. Rằng không, Tuỳ nơi, tuỳ lúc, tuỳ người, và tuỳ chai. Ðó là vấn đề cộng hưởng(résonnance), cũng không hoàn toàn riêng tư. Vì vậy khi chủ nhà thịnh tình mời một chai rượu quý, và tới cái lúc lạc quan và bi quan lẫn lộn, lạc quan là vẫn còn một nửa, bi quan là đã hết mất nửa rồi, lúc ấy mới hỏi : thế nào ? thì cũng nên nắm thêm vài bài bản nữa, để tán cái ngon cho đúng với tình đồng tửu đạo.

Trước hết nếu được mời ăn thì chớ đem rượu nho tới, trừ những chỗ anh em bạn bè thân tình đã biết tính nhau. Rượu nho ngon có thể tặng bất cứ dịp nào trừ ra dịp ấy, có nhiều bất tiện : có thể trái với trù tính của chủ nhà đã chọn và chuẩn bị rượu sẵn, đi đường nếu xóc thì rượu lại không thể uống ngay. Người mình hay tặng hoa, nhưng thật ra cũng không nên đem hoa khi được mời ăn, bà chủ nhà bận bịu trong bếp, thì giờ đâu mà cắm hoa cho đẹp, lỡ lại không còn bình vì đã cắm hoa sẵn rồi thì thật phiền ! Vậy đừng ngại đi tới tay không, hai ba hôm sau gửi tới bà chủ nhà một bó hoa với lời cảm ơn, nếu muốn xã giao kiểu cách. Những kiểu cách xã giao khi ăn uống thù tạc ở đâu cũng nhiều, và đại khái đều có lý do cả, nhưng trong cái cuộc đại xáo trộn văn hoá trên thế giới hiện nay người có bản lĩnh văn hoá riêng của dân tộc mình đi đâu cũng có thể bình thản : cái chính là tự trọng, chân thành, tôn trọng và thực sự muốn tìm hiểu người khác ; kiểu cách chỉ là cái ngọn, không quan trọng lắm.

Nhắc lại nhiều quá sợ nhàm, về rượu có thể lẩy ra vài thí dụ : bạn có để ý trên cổ chai rượu chỗ gần nút bao giờ thuỷ tinh cũng dầy ra, như ngón tay đeo nhẫn không ? cái nhẫn ấy làm cho rượu không bám vào cổ chai chảy ra ngoài khi rót. Vậy lúc bóc lớp chì bảo vệ nút chai bạn hãy bóc khỏi cái nhẫn ấy rồi lau sạch, cho nó làm được việc, khi rót bảo đảm rượu không dính vào vỏ chì, vừa bám mùi mất ngon, vừa bị nhỏ giọt ra ngoài. Nghề uống cũng lắm công phu, nhiều người phục vụ trong các quán ăn xoàng còn chưa hiểu cái lý ấy. Lại khi đi ăn nhà hàng, thường có một người được anh dọn rượu cho là có máu mặt, mời nếm rượu trước khi rót cho mọi người, tại sao vậy ? Bạn không hiểu cũng không sao, cứ nhấp một ngụm, gật gù vài cái rồi cho phép hắn rót. Ðây chỉ là nề nếp lối xưa, ngày xưa cái nút lúc đóng vào chai có khi chưa tẩy rửa sạch sẽ nên có thể bị ủng, làm hỏng rượu, nếm thấy thì bảo đổi. Bây giờ cái mùi nút chai ủng đó chắc đã biến mất, nhưng tập tục vẫn còn, cũng vì thế khi đãi khách chủ nhà bao giờ cũng rót trước một ít vào ly mình, gọi là để thử, trước khi mời mọi người, rồi mới rót thêm cho mình sau cùng. Hãn hữu có khi nút chai khô teo lại, chút xíu, mắt nhìn không biết, nhưng với thời gian không khí lọt vào làm chua rượu, vì thế nguyên tắc là chai rượu chưa uống phải để nằm ngang, nút thấm rượu sẽ chặt và chốt được lâu dài. Ở các siêu thị vẫn có những chỗ quầy bán rượu chứa rượu ở thế đứng, mới mệt mỏi làm sao!

3. Ðất, nho, rượu, uống và ăn

Cà kê đã nhiều, có lẽ đến lúc nên tỉnh táo đi vào khái quát ngắn gọn để phục vụ bạn đọc mới bước vào bồ đào tửu đạo. Tuy rằng kẻ hèn này chưa được một phần công lực, nhưng đâm lao thì phải theo lao, vả lại trên đời này có mấy ai đắc đạo rồi mới đi truyền đạo đâu ? Vậy thì ta bắt đầu. Có mấy điểm sau đây : Một là các thứ rượu chính. Hai là các vùng trồng rượu ở Pháp cùng các giống nho chính trong vùng. Ba là làm sao có rượu ngon để uống. Cuối cùng là một vài nguyên tắc kết hợp rượu và món ăn.

3.l. Nho, rượu và nhựa sồi


Có ba loại rượu mắt nhìn thấy ngay : rượu trắng, rượu đỏ và rượu hồng (rosé). Màu khác nhau là do giữ bã vỏ nho đỏ lâu, ít, hay bỏ bã ngay chỉ lấy nước nho thôi, nước nho đỏ vẫn màu trắng, vì vậy rượu hồng không phải do pha hai thứ rượu như có thể hiểu nhầm, chỉ riêng sâm banh (champagne) hồng là làm theo kiểu này. Rượu trắng thường làm bằng nho trắng nhưng cũng có thể làm bằng nho đỏ, hay do trộn cả hai thứ nho. Mặt khác không phải chỉ có nho trắng hay đỏ (nhìn thấy đen) mà còn những loại nho có vỏ xam xám, hay có vỏ màu hồng đào. Trắng, đỏ hay hồng thì cũng có loại rượu thuần giống và có loại dùng nhiều giống nho, tuỳ theo vùng. Rượu trắng có thể có loại ngọt (doux, moelleux). dịu mà không ngọt lắm (demi-sec), hay khan, ít ngọt (sec) ; từ dịu đến khan thực ra là đủ thứ, liên tục. Rượu trắng lại có thứ sủi bọt như champagne ai cũng biết. Rượu hồng cũng có ba thứ. Rượu đỏ chỉ có loại ngọt và loại không ngọt, rượu đỏ ngọt thường dùng uống khai vị, ít khi dùng trong bữa ăn, tạm để ra ngoài nếu không thì quá dài dòng. Rượu trắng sủi bọt, rượu trắng ngọt và rượu rosé cũng xin miễn bàn vì cùng lý do. Còn lại chủ yếu là rượu đỏ và trắng ‘khan’, phổ biến nhất mà cũng đa dạng nhất. Rosé thơm mát, hương vị không phức tạp, uống chơi trong mùa hè cũng thú nhưng không ai giữ lâu và không phải thứ tửu đồ nói đến nhiều.
Rượu để giữ lâu cần có ” cơ thể tròn trịa “, nghĩa là đủ mùi vị : đủ độ cồn, độ ngọt, độ chua, và độ chát do chất ta nanh (tanin) ở vỏ nho tan ra. Chưa quen thì dễ bị cái độ cồn và độ chát nó lấn át, quen rồi sẽ nếm thấy nhiều thứ khác, cũng như khi tập nghe nhạc giao huởng. Thứ rượu ngọt thì dễ để lâu còn thứ rượu khan thì phải trông vào độ cồn và độ chát, chủ yếu ở độ chát, vì khi nho đã ít ngọt thì độ cồn cũng không thể cao. Do đó phải tăng cường bằng chất ta nanh từ gỗ sồi (chêne/oak) ở thùng rượu tan ra, rượu đỏ ngon thường để trong thùng sồi một hoặc hai năm rồi mới vô chai, trong thời gian đó và trong nhiều năm sau, những phản úng hoá học rất tế vi giữa nước nho, vỏ nho, chất đường, chất cồn và nhựa sồi vẫn tiếp tục để sản xuất ra hàng trăm hương vị khác nhau, cặn bã kết tủa lắng xuống và chất chát mất đi dần. Rượu ngon uống đủ tuổi phải có bã, Bourgogne ít bã hơn Bordeaux, khi mang khi rót chai rượu già tuổi phải nương nhẹ vì vậy, nếu nhiều bã quá có khi phải rót rất nhẹ nhàng sang một chai khác, để lắng lúc lâu rồi mới rót ra ly. Những ngườl làm rượu theo kinh nghiệm đã biết khá rõ giống, đất và mùa màng, có thể chủ ý làm rượu để giữ, để uống ngay vài tháng hay một hai năm sau khi vô chai. Nhưng kết quả thế nào còn tuỳ thời gian quyết định. Nguyên tắc chung là phải biết thứ rượu nào, năm nào giữ được, và giữ được bao lâu, những thông tin này thì các mục về ẩm thực trên báo chí Pháp năm nào cũng có. Có thể loại ngay những chai không có năm sinh, không giữ, và cũng không uống. Rượu trắng thường không “nuôi ” trong thùng sồi, trừ rượu trắng của vùng Bourgogne, vì vậy chỉ loại ngọt hay dịu mới giữ được lâu, rượu trắng khan không phải Bourgogne nhất quyết không giữ cái ngon được quá hai ba năm, còn rượu Bourgogne uống trẻ thấy chát biết ngay. Loại rượu đỏ nước không đủ sẫm và uống thấy không chát thì cũng không nên giữ lâu, phụ lòng người làm rượu. Ngoài ra thì phải tìm hiểu thêm từng vùng, có khi từng làng một, để dần dần có kinh nghiệm. Hai vùng trồng rượu nổi tiếng thế giới, Bordeaux và Bourgogne, có hàng trăm những làng hay nhà có rượu ngon, không thể biết hết. Ngoài ra những vùng chính có rượu ngon (không kể rượu ngọt hay rượu sủi bọt) phải kể đến là Beaujolais, Côtes du Rhône, vùng sông Loire và vùng Alsace.

3.2. Tóm tắt các vùng rượu

Bordeaux có nhiều thứ rượu trắng ngọt tuyệt hảo, như sauternes, nhưng thôi, đã xin giới hạn. Rượu đỏ Bordeaux làm theo cách pha giống, hương vị rất tế nhị phức tạp, ở những khu Médoc và Graves chủ lực là giống Cabernet- Sauvignon, bây giờ rất phổ biến trên thế giới, còn ở những khu Pomerol và Saint Émillon thì chủ lực là giống Merlot. Ðó là những giống nho nhiều ta nanh, có thể giữ rất lâu, trên mười năm, hai mươi năm hay hơn tuỳ mùa nho và tên nhà làm rượu (chateau), có nhiều tên rượu đệ nhất đẳng phải trên năm sáu năm sau mới bắt đầu uống được, tuy rằng hơi phí.

Médoc và Graves tế nhị hơn Pomerol và Saint Émilion, hai thứ sau này chịu được những món ăn ” nặng ” nhất. Rượu đỏ Bourgogne chuyên trị glống Pinot noir ; ít ta nanh hơn và trưởng thành sớm hơn, nên uống sau hai, ba hoặc bốn năm, không nên để lâu quá sáu bảy năm : trừ một số nhà cũng nổi tiếng không thua gì rượu Bordeaux, để rất lâu được. Chia làm hai vùng lớn : Côte de Nuits và Côte de Beaune, thứ sau này tế nhị hơn thứ trước ; Côte de Nuits nội lực cao hơn, đi với các món ăn nặng như thú rừng, phó mát nhiều mùi. Pinot noir rất dễ phản ứng với không khí, toả nhanh mùi thơm, rất thơm, nhưng cũng dễ gây chua, rượu Bourgogne hơi chua một chút so với Bordeaux là bình thường. Rượu trắng Bourgogne ngon như Chablis, Meursault đều do giống nho Chardonnay, bây giờ cũng phổ biến trên thế giới chẳng khác gì Cabernet Sauvignon.

Rượu Beaujolais nổi tiếng vì Beaujolais nouveau, một chiến lược chào hàng (marketing) toàn thế giới rất thành công, làm bằng giống nho Gamay, mau lên men, thơm mùi trái cây. Thứ beaujolais không tên tuổi dĩ nhiên nên uống ngay trong năm hoặc để năm sau là cùng. Thứ có tên như Moulin à vent, Morgon, Julienas… nên uống trong vòng từ hai đến bốn năm, trừ những mùa đặc biệt có thể giữ lâu hơn.

Côtes du Rhône là một vùng nhiều nắng nên sản xuất nhiều rượu bằng những thứ nho năng suất cao không đáng kể tên. Tuy nhiên lại có những làng như Hermitage, dùng thuần giống nho Syrah, năng suất thấp, nhiều độ chát, phải được đặt ngang hàng với những thứ ngon nhất, có thể giữ trên mười năm. Syrah cũng là giống nho được dùng nhiều trong loại rượu pha giống để kéo các thứ khác lên. Rượu trắng và đỏ vùng sông Loire dùng nhiều thứ giống, những làng có rượu trắng ngon là Sancerre, Reuilly, đỏ là Chinon, Bourgueil, Saumur-Champigny. Chỉ Chinon nổi tiếng là giữ được lâu. Ðặc biệt vùng gần bờ biển chuyên sản xuất loại Muscadet rất khan, uống với đồ biển (sống, hoặc chuẩn bị đơn giản như nướng hoặc luộc) rất hợp. Vùng Alsace nổl tiếng về những thứ rượu trắng cùng tên giống nhưRiesling, Tokay d’Alsace (hay Pinot gris), Sylvaner, Gewurztraminer, mỗi thứ thơm mỗi khác.Riesling và Sylvaner thì khan, hai thứ kia dịu hơn. Ðặc biệt thứ Gewurztraminer hái muộn(vendange tardive) rất dịu ngọt, để hàng chục năm lại càng thơm. Vì rượu Alsace không đặt tên theo làng nên khó biết và nhớ làng nào ngon.

Vài dòng về chuyện mua ruợu. Không nên mua ở siêu thị, trừ những dịp đặc biệt như có thể khi số này tới tay bạn đọc. Sau mùa hái nho và trước các lễ cuối năm các siêu thị thường có những chiến dịch chào hàng, bán rượu ngon, có thể rất nổi tiếng, và rẻ, vì họ lợi dụng lúc người sản xuất rượu nho phải dọn kho để chuẩn bị đón rượu mùa mới sắp ra, buôn nhiều, có lợi cho cả đôi bên và khách hàng. Dịp may chớ bỏ. Ngoài ra nên mua ở tiệm chuyên bán rượu, người bán thường có thẩm quyền và thích khuyên khách hàng. Dĩ nhiên là đắt hơn, nhưng bạn cũng có khả năng chọn lựa nhiều hơn. Nếu bạn sẵn sàng mua nhiều để giữ thì nên vào một câu lạc bộ rượu nào đó, không thiếu tại các đô thị lớn, và ngay của các cơ quan, các hãng lớn. Ở trên nói nhiều về chuyện giữ rượu vì đó là cách rẻ nhất để uống rượu ngon, giá chai rượu của một mùa ngon mỗi năm tăng nhanh hơn bất cứ thứ giá đầu cơ nào, trừ loại đầu cơ tiền của các tỷ phú. Những năm ngon lại chóng hết, không phải lúc nào cũng mua được. Lúc này bạn nên mua rượu của những năm 88, 89 và 90, ba năm được mùa liên tục nên rượu rất ngon và giá đang xuống, đặc biệt là năm 90, cả nước Pháp rượu ngon. Rượu Bourgogne năm 89 hơi kém so với hai năm kia nhưng không dở. Năm 91 nói chung là kém. Năm 85 rượu cũng thượng hảo hạng như năm 90, đến nay vừa lúc bắt đầu uống được những tên tuổi nổi tiếng thế giới. Nhưng nếu bạn không mua vào những năm 87, 88 thì chỉ còn cách đi những tiệm ăn có tầm cỡ mới kiếm ra, và giá từ ba số đến bốn số.

3.3 Ăn và uống


Ðến chuyện rượu và thức ăn, ăn để mà uống hay uống để mà ăn ? câu hỏi na ná như nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh ? Lại một cái bóng ma nữa của thời ấu trĩ. Mỗi người đấm đá một cách khác nhau với những bóng ma của riêng mình. Bản thân tôi, cũng được vỡ lòng về lôgích, chỉ thấy ở đó một sự ngây thơ khờ khạo về phương pháp tư tưởng. Nghệ thuật nằm trong, chứ không nằm ngoài nhân sinh, hai khái niệm ấy không độc lập với nhau nên không thể đem ra mà đối chọi được. Chấm. Nếu có vị nào muốn nêu vấn đề thì xin mời xem tranh Guernica của Picasso, rồi lại mời xuống động Lascaux xem những cái đầu bò tót vẽ thời tiền sử, Picasso là người của xứ bò tót, thế mà đã từng tới Lascaux học hỏi hàng tuần trước khi vẽ Guernica. Thủ sẵn một cây thiền trượng, vì lúc ấy nếu còn vị nào léo nhéo ” nghệ thuật…nhân sinh” thì chắc chỉ còn cách của các thiền sư, tặng cho một hèo lên đầu mà quát rằng : ” Ðừng ngớ ngẩn nữa, xem đi !“
Trở lại vấn đề nghiêm chỉnh : ăn để mà uống, hay uống để mà ăn ? Trừ các nhà làm hay bán rượu hoặc các đại sư phụ của bồ đào giáo phái ra, có bao giờ ta lại được nghe sư nương thỏ thẻ : ” Anh ơi, định đãi khách uống gì để em liệu món ăn ? “. Vì vậy trong trường hợp này phuphải tòng phụ, uống tuỳ theo ăn là chính. Ngoài ra để thưởng thức riêng một chai rượu thì chẳng cần ăn gì phức tạp, có cái gì bùi bùi béo béo đưa miệng như hạt giẻ, trái hồ đào(noix/wallnut), một mẩu bánh mì phó mát là quá đủ. Tránh gia vị.

Dễ nhất là các món ăn có sốt rượu, luôn luôn đi cùng thứ rượu đã làm sốt. Ngoài ra có vài kinh nghiệm phổ biến nên theo, trong khi không nên quên là các cao thủ đều có thể ra ngoài luật lệ. Chất tanh của cá kỵ với chất ta nanh, còn vị chua lại dễ khử chất tanh, cho nên rượu trắng thường uống với cá, ai cũng biết. Ðồ biển sống hay cá nướng phải đi với thứ rượu rất khan, chua nhiều. Xào nấu kỹ, có sốt thì dùng rượu trắng dịu hơn hay có thể rượu đỏ nhẹ ít ta nanh như Beaujolais, Côtes du Rhône hay rượu vùng Loire. Những thứ này cũng thường đi với thịt trắng (gà, lợn). Thịt có nhiều máu như bò, cừu quay, ít gia vị, thì tăng thêm một mức đậm dà, nên dùng Côte de Beaune, Médoc hay Graves. Thú rừng, những món thịt đỏ nấu sốt nhiều gia vị hơn cần được hộ tống bằng Côte de Nuits, Saint-Emilion hay Pomerol, nội lực dồi dào. Cái thang từ nhẹ nhàng thơm mát đến tế nhị, phức tạp, nồng nàn, là như thế. Rượu đỏ quý kỵ các món có nhiều dấm, nhiều tỏi hay nhiều tiêu, lúc ấy chỉ cần uống rượu trắng hay rosé nhẹ cho mát cái miệng, uống nước lã càng tốt. Một số món đi với rượu đỏ ngọt hay rượu trắng ngọt cũng rất ngon, như foie gras, món gan béo.

Ăn cơm Việt nên uống rượu gì ? đây là chỗ giao lưu văn hoá chưa có nhiều kinh nghiệm, phải đợi thời gian và thử nghiệm trả lời xem các cuộc tình duyên Âu Á về rượu và món ăn này có gì hảo. Cái khó là người mình dọn nhiều thứ cùng một lúc. Ngoài ra để bắt đầu chắc rằng nếu theo những kinh nghiệm đã kể ra ở trên thì cũng chọn rượu được. Riêng bản thân người viết bài rất thích uống loại rượu trắng dịu và thơm mát như Gewurztraminer trẻ khi có vài món thịt cá lẫn lộn. Ăn chả cá, chả cua bể, chạo tôm hay cù lao nên dùng thứ rượu trắng khan hơn mà vẫn thơm, như Sancerre, Riesling. Beaujolais hay rượu vùng Loire cũng chịu được các món đa dạng, rosé chịu được nhiều tiêu hay nhiều tỏi. Những món thịt xào nấu phức tạp hơn hoặc những món thịt quay nếu ăn riêng mới nên thử các thứ rượu đỏ có tên tuổi. Ðó chỉ là ý riêng của một người.

(Nguồn: Internet)
----------------------------
* Ðó là bài thơ Lương Châu Từ của Vương Hàn. Dưới đây là bản dịch của Trần Trọng San :

Rượu bồ đào, chén dạ quang,
Muốn say, đàn đã rền vang giục rồi.
Sa trường say ngủ, ai cười ;
Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu.

16 thg 6, 2012

Tám bài học về thuật lãnh đạo của Mandela

(Richard Stengel) 


Nelson Rolihlahla Mandela là cựu tổng thống Nam Phi và cũng là vị tổng thống đầu tiên được toàn quốc Nam Phi kể cả người Nam Phi da trắng và da đen bầu ra. Sinh năm 1918, năm nay 93 tuổi, Mandela đã trải qua một thời gian dài đấu tranh bằng phương pháp bạo lực vũ trang để chấm dứt chế độ phân chủng tại Nam Phi. Vì những hoạt động này ông đã bị kết án tù chung thân và phải chịu sự giam cầm trong suốt 27 năm tại những nhà tù hắc ám nhất của Nam Phi. Sau này Mandela thay đổi chiến lược tiến hành đấu tranh bất bạo động và được trả tự do năm 1990. Trong cuộc bầu cử đa đảng và đa chủng đầu tiên năm 1994, đảng ANC của Mandela đã giành thắng lợi, và ông trở thành vị tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử của nước Nam Phi. Mandela nhận được hơn 250 huy chương và giải thưởng cho những hoạt động của ông, kể cả giải Nobel Hòa bình năm 1993. Richard Stengel là nhà văn và ký giả đã cộng tác với Mandela để viết cuốn tiểu sử tự bạch”Bước Đường Tự Do” của Mandela.


Bài viết này được đăng trên Tạp chí Time, số ra ngày 9 tháng Bảy, năm 2008, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 90 của Mandela. 

*** 

Nelson Mandela chỉ cảm thấy thoải mái khi ở gần trẻ con, và ta có thể nói rằng sự mất mát lớn nhất mà ông phải chịu trong 27 năm tù là không được nghe tiếng khóc của trẻ con hay được cầm lấy tay chúng. Tháng vừa rồi, khi tôi đến thăm Mandela tại Johannesburg, tôi gặp một Mandela chậm chạp hơn, gầy yếu hơn-hành động tự nhiên đầu tiên của ông là dang tay ôm hai đứa con trai của tôi vào lòng. Chỉ trong giây lát chúng cũng quấn quít lấy ông lão đang thân mật hỏi han chúng ăn gì vào buổi sáng và thích môn thể thao nào nhất. Trong lúc chúng tôi chuyện trò, Mandela ôm lấy con trai tôi, bé Gabriel. Cháu có cái tên đệm khá rắc rối là Rolihlahla. Cái tên này cũng là tên cúng cơm thật sự của Mandela. Ông kể cho Gabriel sự tích cái tên đó, và ý nghĩa của nó trong tiếng Xhosa[1] là “kéo cành cây xuống” nhưng ý nghĩa thực sự của nó là “kẻ gây rối.” 

Tuần sau, Nelson Mandela sẽ kỷ niệm sinh nhật thứ 90, [trong từng ấy năm,] ông là kẻ đã gây đủ rắc rối cho cả vài kiếp người. Ông đã giải phóng đất nước ông ra khỏi một hệ thống đầy thành kiến quá khích và góp phần vào đoàn kết sắc dân da trắng và đa đen, những kẻ đàn áp và những người bị đàn áp, bằng một phương thức vô tiền khoáng hậu. Năm 1990, tôi làm việc với Mandela gần hai năm để thực hiện cuốn tiểu sử tự bạch Bước Đường Dài Tự Do. Sau chừng ấy thời gian làm việc với ông và khi cuốn sách đã viết xong, tôi cảm thấy một sự hụt hẫng khủng khiếp, như thể mất đi ánh sáng mặt trời. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau trong những năm qua, nhưng tôi muốn gặp ông lần này, biết đâu lại chẳng là lần cuối, và cho hai đứa con tôi gặp ông thêm một lần nữa. 

Tôi cũng muốn bàn với ông về thuật lãnh đạo. Mandela là người mà thế giới có thể xem là một ông thánh ở cõi phàm, nhưng ông vẫn cho là ông tầm thường hơn thế nhiều: chỉ là một chính trị gia mà thôi. Ông đã lật đổ được chế độ Phân chủng và kiến tạo nên một nước Nam Phi dân chủ không phân biệt chủng tộc bằng sự phán đoán chính xác phải thay đổi những vai trò của ông vào lúc nào và như thế nào, [lúc thì] là một chiến sĩ, một nhà tử đạo, một nhà ngoại giao, và một nhà lãnh đạo tầm vóc quốc gia. Là người không thoải mái lắmvới những khái niệm triết học trừu tượng, Mandela vẫn thường bảo tôi là [khi đối phó với] một vấn đề “không phải là một câu hỏi về nguyên tắc, mà là một câu hỏi về chiến thuật.” Ông là một bậc thầy về chiến thuật. 

Mandela cũng không cảm thấy thoải mái khi có người thăm viếng hay xin xỏ ân huệ này nọ. Một mặt ông e rằng ông sẽ không thể đáp ứng được sự mong đợi của người dân khi họ đến thăm và xem ông như một vị thánh sống, và mặt khác, ông cũng còn khá tự ái vì nếu không đáp ứng được thì họ nghĩ là ông đã hết thời. Nhưng thực ra, thế giới chưa bao giờ cần đến những tài năng và vai trò của ông-một chiến thuật gia, một nhà vận động chính trị, một chính trị gia-hơn là lúc tại London, ngày 25 tháng Sáu, khi ông đứng lên và lên án sự tàn bạo dã man của nhà độc tài Robert Mugabe của xứ Zimbabwe. Và khi ta đang đi vào giai đoạn chính của cuộc tranh cử tổng thống mang đầy tính lịch sử tại Mỹ [2], Mandela có nhiều điều có thể dạy cho hai ứng cử viên. Tôi luôn luôn nghĩ rằng những điều mà độc giả sắp đọc dưới đây phải được coi là Những Định Luật của Madiba (tên tộc của ông dùng trong bộ lạc hay những người thân cận thường gọi), những quy luật chính trị mà tôi đã thu nhặt được trong những lần đàm luận với ông và qua những sự quan sát cách ứng xử của ông từ xa cũng như ở gần. Tất cả những quy luật này đều mang tính thực tiễn. Và nhiều điều được rút ra từ chính kinh nghiệm bản thân của Mandela. Tất cả đều được tính toán để tạo ra một sự rắc rối tốt đẹp nhất: một sự rắc rối buộc ta phải đặt câu hỏi là làm thế nào để thế giới trở nên tốt đẹp hơn. 

Bài học thứ nhất: Can đảm không có nghĩa là không biết sợ-Can đảm là truyền dũng khí “vượt qua nỗi sợ” cho kẻ khác 

Năm 1994, khi đang vận động tranh cử tổng thống (lần đầu tiên trong lịch sử Nam Phi), Mandela đi một chiếc phi cơ nhỏ bay bằng cánh quạt để thăm tỉnh Natal, nơi đã từng là bãi chiến trường, và nói chuyện với những người gốc Zulu đang ủng hộ ông. Tôi đồng ý gặp ông sau khi ông nói chuyện xong để còn tiếp tục công việc phỏng vấn. Khi máy bay còn cách phi trường khoảng 20 phút, thì một động cơ bị hỏng. Một số người trên phi cơ bắt đầu hoảng hốt. Điều duy nhất giúp họ giữ được bình tĩnh chính là cử chỉ của Mandela; ông thản nhiên và yên lặng đọc báo như thể là đang đi trên chuyến xe lửa đến văn phòng làm việc. Ở bên dưới, phi trường chuẩn bị cho máy bay đáp khẩn cấp và viên phi công cũng đưa được máy bay đáp an toàn. Khi Mandela và tôi ngồi vào băng ghế sau của chiếc xe BMW được bọc thép chắn đạn để đi đến chỗ họp, ông quay sang nói với tôi: “Chúa ơi, tôi sợ phát khiếp lên được khi máy bay bị hỏng động cơ trên không.” 

Trong thời gian hoạt động bí mật, Mandela cũng có nhiều phen sợ hãi, như trong phiên xử tại Rivonia,[3] hay trong thời kỳ bị giam giữ tại nhà tù trên Đảo Robben. [4] Ông nói với tôi: “Dĩ nhiên là tôi sợ chứ!” Chỉ có những kẻ mất trí mới không biết sợ thôi. “Tôi không thể giả vờ là mình là người can đảm và có thể chiến thắng cả thế giới.” Nhưng là một nhà lãnh đạo, ta không thể để cho người dân biết được điều này. “Ta phải tạo ra một bộ mặt can đảm.” 

Và đó chính là điều ông đã thực tập: làm bộ can đảm, và những hành động có vẻ “vô úy” ấy đã tạo niềm hứng khởi và dũng khí cho người khác. Đó là một vở kịch câm mà Mandela đã diễn xuất tuyệt hảo trên Đảo Robben, một nơi nổi tiếng là rùng rợn. Những tù nhân bị giam chung trên đảo nói rằng chỉ cần nhìn thấy Mandela bước quanh sân trại, ngực ưỡn thẳng đầy kiêu hãnh, cũng đủ để giúp cho họ thêm sức sống trong nhiều ngày. Mandela biết rằng ông là tấm gương cho người khác và đó cũng giúp cho ông sức mạnh để vượt qua nỗi sợ của riêng mình. 

Bài học thứ hai: Lãnh đạo phải đi đầu-nhưng đừng để “hậu cứ” lại đằng sau 

Mandela là một người khôn ngoan và kín đáo. Năm 1985 ông phải giải phẫu vì tuyến tiền liệt bị nở lớn. Khi trở lại nhà tù, ông bị giam riêng không cho ở chung với các bạn đồng tù nữa, những người đã ở chung với ông trong 21 năm. Họ phản đối trại giam về lệnh phân cách này. Nhưng, theo lời của Ahmed Kathrada, một người bạn thâm giao, Mandela đã nói với bạn tù là: “Các bạn, cứ từ từ. Biết đâu trong việc này lại chẳng có điều hay. 

Điều hay xảy đến chính là việc Mandela tự ý tiến hành đàm phán với chính phủ phân chủng. Điều này là điều cấm kỵ bậc nhất của tổ chức Hội nghị Toàn quốc Phi Châu (African National Congress-ANC). Sau hàng bao thập niên tuyên bố rằng “tù nhân không thể đàm phán” và sau khi cổ võ cho đấu tranh vũ trang để lật đổ chế độ phân chủng, Mandela đã quyết định rằng bây giờ là đúng thởi điểm để bắt đầu “nói chuyện” với những người đang thống trị và đàn áp mình. 

Khi Mandela đề xướng đàm phán với chính quyền năm 1985, rất nhiều người nghĩ rằng ông đã thua trong cuộc đấu tranh rồi. Cyril Ramaphosa, lúc đó là một lãnh tụ có thế lực và nồng nhiệt của Công đoàn Phu Mỏ Quốc gia, đã nói: “Chúng tôi nghĩ ông ấy là kẻ phản bội. Tôi đã đến gặp chỉ để nói với ông là ‘Anh đang làm cái gì vậy?’ Đó quả là một đề xuất không thể tin nổi. Và ông đã chấp nhận một sự rủi ro vô cùng lớn lao.” 

Mandela phải mở một chiến dịch để thuyết phục ANC rằng con đường ông chọn là con đường đúng đắn. Ông đặt cược bằng tất cả uy tín của mình. Kathrada nhớ lại là ông đi đến từng đồng chí một, những người cùng bị giam trong tù, để giải thích và thuyết phục họ về con đường ông chọn. Từ từ và thận trọng, ông đã thuyết phục được họ cùng đồng hành. Ramaphosa, lúc đó là tổng thư ký của ANC và bây giờ là một đại doanh gia, nói: “Bạn phải mang được hậu cứ đi theo với bạn. Khi đã tới điểm đổ bộ, lúc đó để cho họ tiến bước. Mandela không phải là loại lãnh tụ “kẹo cao-su”-nhai xong rồi bỏ. 

Đối với Mandela, từ chối không đàm phán hoàn toàn là vấn đề chiến thuật, chứ không phải nguyên tắc. Trong suốt cuộc đời, hành động của ông thể hiện rõ nét sự khác biệt này. Cái nguyên tắc vững chắc của ông-lật đổ chế độ phân chủng và đạt được thể chế mỗi người, một phiếu-là một nguyên tắc không thể thay đổi được. Nhưng hầu như bất cứ điều gì giúp ông đạt được mục đích đó, ông đều xem là chiến thuật. Phải nói Mandela là một người lý tưởng thực tiễn nhất. 

Ramaphosa nói: “Ông ấy là một con người lịch sử. Tầm suy nghĩ của ông vượt xa chúng tôi. Ông luôn nghĩ đến hậu thế trong tư duy của mình: Thế hệ mai sau sẽ nghĩ thế nào về những việc ta đã làm?” Cuộc sống lao tù đã tạo cho ông khả năng có tầm nhìn chiến lược lâu dài. Bắt buộc phải như vậy thôi, vì đi tù chung thân biết đến ngày nào được thả [mà nghĩ đến chuyện gần]. Ông không nghĩ theo ngày hay tháng, mà cả hàng thập niên về sau. Ông biết là lịch sử đồng hành với ông, và sự thành công là điều tất yếu; chỉ còn lại là vấn đề chừng nào và làm thế nào để đạt được sự thành công này. Ông thường nói, “về lâu về dài tình hình sẽ khá hơn.” Ông chấp nhận đấu tranh trường kỳ. 

Bài học thứ ba: Lãnh đạo từ phía sau-và để cho người khác tưởng họ đang dẫn đầu 

Mandela rất thích hồi tưởng lại thời thơ ấu và những buổi chiều chăn trâu nhàn hạ. Ông nói: “Bạn biết không, chăn trâu bạn phải chăn từ phía sau đàn.” Nói xong ông nhướng mắt nhìn xem tôi có hiểu được sự so sánh ấy không. 

Khi còn là một đứa trẻ, Mandela chịu ảnh hưởng sâu đậm của Jonginbata, vị vua của bộ tộc Xhosa và là người đã nuôi dưỡng ông khôn lớn. Khi Jonginbata thiết triều, quần thần tụ tập thành vòng tròn xung quanh, và chỉ sau khi mọi người đã phát biểu, nhà vua mới bắt đầu lên tiếng. Mandela nói, công việc của nhà lãnh đạo không phải là bảo người ta làm gì mà là để tạo được sự đồng thuận. Ông vẫn thường hay nói: “Đừng có tham gia vào cuộc tranh luận quá sớm.” 

Trong suốt thời gian tôi làm việc với Mandela, ông thường triệu tập những phiên họp những cộng sự viên thân cận tại nhà riêng ở Houghton, một khu ngoại ô lịch sự của Johannesburg. “Nội các trong bếp” của Mandela gồm khoảng một chục người, gồm có Ramaphosa, Thabo Mbeki (bây giờ là Tổng thống Nam Phi sau cuộc bầu cử 1999) và những người khác, ngồi chung quanh chiếc bàn ăn hay đôi khi ngồi thành vòng tròn ngoài sân đậu xe. Vài người lớn tiếng đòi hỏi phải làm nhanh, quyết liệt hơn, và Mandela chỉ ngồi yên lắng nghe. Sau khi mọi người phát biểu và ông lên tiếng, ông nói chậm rãi và đúc kết ý kiến của từng người một cách có phương pháp và rồi thì mới cho biết ý kiến riêng của mình, một cách khéo léo đưa đến quyết định theo ý ông muốn mà không cần phải áp đặt. Cái khéo của thuật lãnh đạo là phải để cho chính mình cũng được lèo lái. Mandela nói: “Điều khôn ngoan là làm sao thuyết phục người khác làm điều mình muốn và khiến cho họ nghĩ rằng đó chính là ý kiến của họ.” 

Bài học thứ tư: Hiểu rõ kẻ thù-Và tìm hiểu xem họ thích môn thể thao nào nhất 

Từ những năm trong thập niên 1960, Mandela bắt đầu học tiếng Afrikaans,[5] ngôn ngữ của người Phi châu da trắng (Afrikaner), những người đã tạo ra chế độ phân chủng. Đồng chí của Mandela trong ANC vẫn thường chế diễu ông về điều này; nhưng ông muốn tìm hiểu quan niệm và triết lý sống của người Phi da trắng là gì. Vì ông biết rằng sẽ có một ngày ông phải hoặc là đấu tranh hoặc là đàm phán với họ, và ở trường hợp nào đi nữa, định mệnh của cả hai dính liền với nhau. 

Việc học tiếng Afrikaans đối với Mandela mang tính chất chiến lược ở hai điểm: khi nói được tiếng của đối phương, ông có thể hiểu được ưu điểm và nhược điểm của họ để hoạch định những chiến thuật đúng đắn. Nhưng đồng thời ông cũng thu phục được cảm tình của đối phương. Mọi người, từ những anh lính gác tù cho tới tổng thống P.W. Botha, đều nể phục Mandela về sự tự nguyện học tiếng Afrikaans và lịch sử của người da trắng Afrikaner. Mandela còn học hỏi thêm về môn bóng rugby,[6] môn thể thao được người Afrikaner yêu chuộng, hầu có thể bàn và so sánh các đội banh và cầu thủ với những người khác. 

Mandela hiểu rằng người da đen và da trắng Phi châu có chung một điều căn bản: Người da trắng Afrikaner tin rằng họ là người Phi châu cũng giống như người da đen Phi châu tin họ là người Phi châu. Ông cũng biết rằng chính những người da trắng Afrikaner cũng là nạn nhân của thành kiến: Chính quyền nước Anh và những người di dân Anh quốc vẫn coi khinh những người da trắng Afrikaner. Họ cũng bị mặc cảm tự ti văn hóa tương tự như những người da đen. 

Mandela là một luật sư và ở trong tù ông giúp ý kiến cho những người cai tù về những vấn đề luật pháp. Họ là những người kém học và bình dân hơn ông nhiều; cho nên, đối với họ sự việc một người da đen sẵn lòng và có khả năng giúp đỡ họ là một điều phi thường. Allister Sparke, sử gia hàng đầu của Nam Phi nói: “Những người cai tù này là điển hình cho đặc tính thô bạo và tàn ác nhất của chế độ phân chủng, nhưng ngay cả với những phần tử tồi tệ và thô lỗ nhất ông cũng có thể đàm phán được.” 

Bài học thứ năm: Giữ bạn ở gần-và giữ kẻ thù gần hơn 

Có nhiều người khách được Mandela mời tới nhà riêng ở Qunu, nơi ông lớn lên. Trong số những người này có những người Mandela thổ lộ với tôi là không thể hoàn toàn tin được. Nhưng ông vẫn mời họ ăn cơm, gọi điện thoại hỏi ý kiến, ca tụng và tặng quà cho họ. Mandela là người có sức hấp dẫn mạnh mẽ và ăn nói duyên dáng, và nhờ đó đã tạo được nhiều ảnh hưởng tới đối phương hơn là với đồng minh. 

Lúc bị giam trên Đảo Robben, trong vòng những người thân cận của Mandela luôn luôn có những người mà ông hoặc là không thích hoặc là không hoàn toàn tin tưởng. Một người rất gần gũi với ông là Chris Hani, tham mưu trưởng của ANC, một người rất nóng nảy. Có nhiều người cho rằng Hani đang âm mưu hạ bệ Mandela, nhưng ông vẫn rất thân mật với Hani. Ramaphosa nói: “Chẳng phải chỉ có Hani mà thôi. Có những tay kỹ nghệ gia giàu sụ, những gia đình làm chủ hầm mỏ, và phe đối lập nữa. Ông ấy vẫn nhắc điện thoại gọi chúc mừng ngày sinh nhật của họ. Ông đi thăm viếng họ trong những dịp quan hôn tang tế. Ông ấy cho đó là những cơ hội.” Khi Mandela ra khỏi tù, tiếng tăm ông càng nổi bật hơn nữa khi bao gồm cả những người đã giam ông trong vòng những người bạn và mời cả những người lãnh đạo đã giam giữ ông vào Nội Các đầu tiên. Trong số những người nay có những người ông xem rất thường. 

Tuy thế, cũng có lúc Mandela phủi tay trước một số người–và cũng có lúc, như những người có sức hấp dẫn mạnh mẽ, ông để cho nguời khác thuyết phục. Như lúc đầu Mandela đã tạo được mối quan hệ thân thiết với tổng thống De Klerk, và đó cũng là lý do ông cảm thấy bị phản bội khi De Klerk trở mặt đả kích ông trước công luận. 

Mandela tin rằng ôm lấy đối phương là một cách để chế ngự họ: để họ ở ngoài vòng ảnh hưởng của mình còn nguy hiểm hơn nhiều. Mandela quý trọng sự trung thành, nhưng chưa bao giờ để cho sự trung thành trở thành một chướng ngại trong việc dùng người. Ông vẫn thường nói, “người ta hành động là vì quyền lợi riêng của họ.” Đó chỉ là một thực tế của bản chất con người, chứ không phải là một khuyết điểm. Mặt tiêu cực của sự lạc quan–Mandela là một người lạc quan–là quá tin người. Nhưng ông nhận thức được cách thức hữu hiệu nhất đối với những người ông không tin là trung lập hóa họ bằng sức hấp dẫn của mình. 

Bài học thứ sáu: Bề ngoài rất quan trọng, và luôn ghi nhớ phải tươi cười 

Khi còn là một sinh viên luật nghèo tại Johannesburg, Mandela chỉ có một bộ đồ vest đã cũ sờn. Ông được đưa đến gặp Walter Sisulu, một người môi giới địa ốc và cũng là một lãnh tụ trẻ của ANC. Mandela thấy đó là một người da đen lịch lãm và thành công, một mẫu người ông muốn noi theo. Còn Sisulu khi thấy ông thì thấy tương lai của Nam Phi. 

Sisulu nói với tôi rằng trong cuộc vận động lớn lao trong thập niên 1950 để biến ANC thành một phong trào quần chúng, thì vào một ngày, ông vừa cười vừa kể, “một lãnh tụ quần chúng bước vào văn phòng của tôi.” Mandela là người đẹp trai, cao lớn, một võ sĩ quyền anh tài tử, đi đứng với một phong thái vương giả như một vị hoàng tử. Và anh ta có một nụ cười rực rỡ như ánh mặt trời ra khỏi đám mây. 

Đôi khi chúng ta quên là có một mối quan hệ lịch sử giữa người lãnh tụ và nhân dáng của họ. Khi bước vào bất cứ căn phòng nào,tổng thống George Washington là người cao nhất và có lẽ là người to khỏe nhất. Vóc dáng và sức mạnh có lẽ tùy thuộc nhiều vào DNA hơn là với những cẩm nang rèn luyện lãnh tụ, nhưng Mandela hiểu được cách vận dụng phong thái của mình để đạt mục đích đấu tranh. Là lãnh tụ của bộ phận vũ trang hoạt động mật của ANC, khi nào cần chụp hình ông cũng đòi phải có quân phục chỉnh tề và để một hàm râu quai nón. Trong suốt sự nghiệp chính trị ông luôn quan tâm đến cách phục sức phù hợp với cương vị của mình. George Bizos, luật sư riêng của Mandela, nhớ lại là lần đầu tiên gặp ông tại một tiệm may của người Ấn Độ trong thập niên 1950, và Mandela là người Nam Phi da đen đầu tiên đi may một bộ vest. Ngày nay, “quân phục” của Mandela là những chiếc áo sơ-mi hoa hòe rực rỡ như để bảo với mọi người ông là một vị cha già vui vẻ của nước Nam Phi hiện đại. 

Khi Mandela tranh cử chức tổng thống năm 1994, ông hiểu là biểu tượng cũng quan trọng như thực chất. Mandela không phải là một nhà hùng biện tài ba, người ta vẫn thường chẳng để ý gì đến điều ông nói sau vài phút đầu tiên. Nhưng biểu tượng là điều mà người ta hiểu. Khi ra trước diễn đàn, Mandela luôn luôn biểu diễn toyi-toyi, một điệu múa dân gian đã được dùng làm biểu tượng của cuộc đấu tranh. Nhưng điều quan trọng hơn là nụ cười rực rỡ, nhân bản và bao dung của Mandela. Đối với những người Phi da trắng, nụ cười là biểu tượng của sự hỷ xả và sự cảm thông với họ. Đối với cử tri da đen, nụ cười này là biểu tượng của một “chiến sĩ hạnh phúc và vui vẻ” và chúng ta sẽ chiến thắng. Bích chương vận động bầu cử được ANC treo khắp mọi nơi chỉ đơn giản có in hình gương mặt và nụ cười của Mandela. Ramaphosa nói, “Nụ cười, chính là thông điệp của Mandela,” 

Sau khi ra khỏi tù, người ta nhắc đi nhắc lại mãi là thật là kỳ diệu khi không thấy Mandela biểu lộ sự cay đắng [về những khổ nhục ông phải chịu đựng]. Thực ra có cả ngàn điều để ông cay đắng, nhưng ông biết hơn ai hết là phải biểu lộ cảm xúc trái ngược với cay đắng. Ông vẫn thường nói: “Hãy quên quá khứ đi”– nhưng tôi biết ông bao giờ quên được. 

Bài học thứ bảy: Không có gì hoàn toàn là trắng hay đen 

Khi chúng tôi bắt đầu những cuộc phỏng vấn, tôi vẫn thường hỏi ông những câu đại loại như thế này: Khi quyết định ngưng cuộc đấu tranh vũ trang, lúc đó ông nghĩ là không có đủ sức để lật đổ chế độ hay là vì ông biết là có thể chinh phục được dư luận quốc tế bằng con đường bất bạo động? Lúc đó ông liếc nhìn tôi với một cái nhìn lạ lùng vì câu hỏi ngớ ngẩn ấy và nói: “Tại sao lại không thể làm cả hai?” 

Tôi đã hỏi những câu hỏi thông minh hơn, nhưng điều ông muốn nói đã rất rõ ràng: Cuộc đời không bao giờ đóng khung trong cái “hoặc là” thế này hay thế nọ. Những quyết định rất phức tạp, và luôn luôn có những yếu tố cần phải cân nhắc. Đầu óc con người vẫn có khuynh hướng tìm một sự giải thích đơn giản, nhưng lại không bao giờ phù hợp với thực tế cả. Những điều trông thẳng như mực tàu thực ra chưa hẳn như vậy. 

Sự mâu thuẫn không làm Mandela khó chịu. Trong cương vị một chính trị gia, ông là người thực tiễn nhận thức được là thế giới có vô vàn sắc thái rất tế nhị. Tôi tin rằng Mandela có được sự nhận thức này vì là một người da đen phải sống dưới chế độ phân chủng, một chế độ mà hàng ngày người da đen phải đau khổ trước những lựa chọn làm suy nhược tinh thần: Tôi có nên làm theo ý muốn của chủ da trắng để có được việc tôi muốn làm và tránh bị đánh đập không? Tôi có phải mang theo giấy phép đi đường không? 

Trong cương vị một nhà lãnh đạo quốc gia, Mandela có một sự trung thành khác thường với Muammar Gaddafi và Fidel Castro. Họ đã trợ giúp ANC khi Hoa Kỳ còn cho Mandela là thành phần khủng bố. Khi tôi hỏi ông về Gaddafi và Castro, ông nói rằng người Mỹ có thói quen nhìn vấn đề hoặc trắng hoặc đen, và trách tôi là không nhận thức được những điều tế nhị của vấn đề. Mỗi vấn đề đều có nhiều nguyên do. Dù thái độ chống chế độ phân chủng của ông thật rõ ràng và không thể bàn cãi được, nhưng những nguyên nhân của sự phân chủng thì lại phức tạp, xuất xứ từ nguồn gốc lịch sử, xã hội và cả tâm lý nữa. Sự tính toán của 

Mandela luôn luôn rõ ràng: Mục đích của ta là gì và phương cách nào thực tiễn nhất để đạt được mục đích đó? 

Bài học thứ tám: Chấp nhận Bỏ cuộc cũng là lãnh đạo 

Năm 1993, Mandela hỏi tôi là có biết có nước nào trên thế giới mà tuổi tối thiểu để đi bầu dưới 18 không. Tôi tìm hiểu và trình cho ông một danh sách những nước mà tiếng tăm không được hay ho cho lắm. Những nước này gồm có: Nam Dương, Cuba, Nicaragua, Bắc Hàn, và Iran. Ông gật đầu tỏ ý hài lòng và khen “tốt lắm, tốt lắm.” Hai tuần sau Mandela lên đài truyền hình Nam Phi và đề nghị hạ thấp tuổi đi bầu xuống còn 14. Ramaphosa nhớ lại: “Ổng cố vận động chúng tôi ủng hộ ý kiến đó, nhưng rút cuộc chỉ có mình ổng thôi. Và Mandela chấp nhận thực tế là ý kiến này không được chấp nhận, và chấp nhận sự thất bại một cách khiêm tốn chứ không tỏ vẻ giận dỗi gì hết. Đó cũng là một bài học về lãnh đạo.” 

Biết cách từ bỏ một ý tưởng, một công tác hay mối quan hệ đã bị hỏng thường là loại quyết định khó nhất mà người lãnh đạo phải chọn. Về nhiều phương diện, di sản lớn nhất mà Mandela để lại trong cương vị Tổng thống Nam Phi là cách ông đã chọn khi mãn nhiệm kỳ. Khi đắc cử vào năm 1994, Mandela có thể làm tổng thống suốt đời–nhiều người còn cho rằng đó là điều tối thiểu nước Nam Phi có thể làm để đền bù cho những năm ông chịu tù đày. 

Trong lịch sử cả Phi châu, chỉ có một số nhỏ đếm trên đầu ngón tay những nhà lãnh đạo được dân bầu là chịu đi xuống khi hết nhiệm kỳ. Mandela cương quyết là sẽ tạo ra tiền lệ cho những người đi sau-không phải chỉ ở Nam Phi mà còn ở khắp Châu Phi. Ông là nhân vật phản diện của Mugabe,[7] ông là người đã khai sinh ra đất nước nhưng từ chối nắm giữ đất nước làm con tin của mình. Ramaphosa nói: “Nhiệm vụ của ông là vạch ra con đường, chứ không phải là người lèo lái con tàu.” Ông cũng biết rằng người lãnh tụ qua những việc mà họ quyết định không làm cũng thể hiện sự lãnh đạo giống như qua những việc họ quyết định làm. 

Nói tóm lại, bí quyết để hiểu được Mandela nằm ở 27 năm ông chịu tù đày. Người thanh niên bước chân lên Đảo Robben năm 1964 là một người đầy tình cảm, bướng bỉnh, và dễ dàng nổi nóng. Người đàn ông bước ra khỏi nhà tù là một người trầm tĩnh và tự chế. Mandela không bao giờ và chưa bao giờ là người tự quan sát nội tâm của mình. Tôi thường hỏi ông là người đàn ông bước chân ra khỏi tù khác với người thanh niên bướng bỉnh khi bước chân vào tù như thế nào. Mandela ghét câu hỏi này lắm. Mãi cho đến một ngày kia ông mới nói: “Khi bước ra, tôi đã trưởng thành.” Không có điều gì hiếm hoi và quý báu cho bằng một người đàn ông trưởng thành. 

Chúc Mừng Sinh Nhật, Madiba. 


Bản dịch: Internet. 


[1] Xhosa là một bộ lạc của tổ tiên của Nelson Mandela, bộ lạc này sinh sống tại vùng phía đông-nam của nước Nam Phi. 

[2] Cuộc bầu cử một tổng thống da đen đầu tiên của nước Mỹ với ứng cử viên Barak Obama. 

[3] Rivonia thuộc ngoại ô của Johannesberg (thủ đô của Nam Phi), nơi diễn ra vụ xử án 10 nhà lãnh đạo Hội nghị Toàn quốc Phi Châu, năm 1963-1964. Nelson Mandela là một trong 10 người này và bị kết án tù chung thân, thay vì bản án tử hình vì bị thế giới lên án và can thiệp. 

[4] Đảo Robben nằm ở phía tây của Cape Town, cách bờ khoảng 7 km. Nhà tù này cũng nổi tiếng như Côn Đảo của VN hay Alcatraz của Mỹ. 

[5] Afrikaans, tạm dịch là tiếng Nam Phi, là một ngôn ngữ thuộc miền tây nước Đức và là ngôn ngữ chính của hai nước Nam Phi và Namibia. 95% ngữ vựng là tiếng Đức-Hà Lan vì ngôn ngữ này được hình thành từ thổ ngữ Hà Lan thuộc thế kỷ 17. Số ngữ vựng còn lại thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau như Mã Lai, Bồ-đào-nha, Bantu và Khoisan. 

[6] Rugby là môn bóng hình bầu dục, một trong những môn thể thao được ưa chuộng nhất tại Anh và những nước thuộc ảnh hưởng của Anh. Môn bóng này cũng tương tự như môn football của Mỹ. 

[7] Mugabe, năm nay 87 tuổi, là tổng thống của Zimbawe đã cầm quyền 28 năm và không chịu từ bỏ quyền lực dù bị thua trong cuộc bầu cử năm 2009.